Di tích lịch sử

Việt Nam

Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng

Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng tọa lạc tại ấp Long Thuận A, xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long, có diện tích 3,2 ha. Đồng chí Phạm Hùng, sinh năm 1912 mất năm 1988; quê quán: xã Long Hồ, huyện Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long; Đồng chí từng giữ các chức vụ: Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1946), kiêm Phó Giám đốc Sở Công an Nam Bộ (1947); Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1951); Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam kiêm Bí thư Liên khu ủy và Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Liên khu miền Đông Nam Bộ (1952); Bộ trưởng Phủ Thủ tướng (1957); Phó Thủ tướng (1958); Bí thư Trung ương Cục miền Nam (1967); Phó Thủ tướng (1976); Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1980 - 1986); Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (1987). Ủy viên Bộ Chính trị khóa 2, 3, 4, 5, 6; đại biểu Quốc hội khóa 2, 3, 4, 7, 8. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng thuộc lớp nhà lãnh đạo tiền bối có tầm nhìn sắc sảo, là tấm gương cao đẹp của người chiến sĩ Cộng sản chân chính. Dù trong lao tù đế quốc, chín năm kháng chiến chống Pháp ở chiến trường Nam bộ, tham gia xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở miền Bắc, về Trung ương Cục miền Nam trên cương vị Bí thư và Chính ủy Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đồng chí đã để lại dấu ấn sâu đậm, tạo tiền đề quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước từ sau Đại hội 4 của Đảng năm 1986. Những cống hiến to lớn của đồng chí Phạm Hùng đối với sự nghiệp cách mạng, đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Không những thế, đồng chí còn để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp đối với các dân tộc và bạn bè thế giới trong việc xây dựng tình đoàn kết hữu nghị các nước. Đồng chí, được Nhà nước Liên Bang Xô Viết tặng Huân chương Cách mạng Tháng Mười, Huy chương vì sự nghiệp củng cố liên minh chiến đấu; Nhà nước Cộng hòa Cuba tặng thưởng Huân chương Chê Ghêvara hạng Nhất; Nhà nước Tiệp Khắc tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất và Huy chương tình anh em chiến đấu; Nhà nước Bungari tặng Huân chương. Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng được khởi công xây dựng ngày 02/10/2000, khánh thành ngày 11/6/2004. Ngày 06/6/2012, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Khu lưu niệm đồng chí Phạm Hùng là Di tích Quốc gia. Nằm trong một tổng thể không gian cảnh quan thoáng mát, có nhiều cây xanh, Khu lưu niệm gồm hai khu vực: nhà từ đường và khu mộ của thân nhân gia đình họ Phạm; các công trình xây dựng trong Khu lưu niệm (nhà lễ tân; nhà tưởng niệm; nhà trưng bày; phục dựng các công trình: Banh 1, trại Phú Hải, nhà tù Côn Đảo; Nhà lá trung quân ở Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, tại Tây Ninh; Nhà 72 Phan Đình Phùng, Hà Nội). Khu lưu niệm của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng là địa điểm lưu niệm danh nhân cách mạng. Đồng thời, là nơi sinh hoạt văn hóa có ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục truyền thống sâu sắc cho thế hệ hôm nay và mai sau. Nguồn: Ban quản lý Khu lưu niệm

Vĩnh Long 3548 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu tưởng niệm cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Khu lưu niệm Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt còn được bà con Vĩnh Long quen gọi bằng cái tên thân thương là “Vườn nhà Ông Sáu Dân”. Khu lưu niệm tọa lạc tại ấp Phong Thới, thị trấn Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Tổng diện tích rộng 1,7 hecta bao gồm các hạng mục: Nhà trưng bày, nhà làm việc, khu thờ, sân vườn. Điểm nhấn của di tích là nhà tưởng niệm và nhà làm việc lúc sinh thời của Thủ tướng. Nhà trưng bày có nhiều tư liệu, hiện vật, hình ảnh thể hiện sống động quá trình hoạt động cách mạng của Thủ tướng. Nhưng ấn tượng nhất là bức ảnh chân dung của cố Thủ tướng với nụ cười rạng ngời ẩn trên nền là 15.000 bức ảnh về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Thủ tướng. Đồng chí Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23/11/1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long, trong một gia đình nông dân nghèo. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Võ Văn Kiệt gắn liền với lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của Đảng và dân tộc ta. Khi 16 tuổi, đồng chí đã giác ngộ cách mạng, tham gia phong trào Thanh niên phản đế và trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương khi mới 17 tuổi. Khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ, ở tuổi 18, đồng chí được giao làm Bí thư Chi bộ xã Trung Hiệp, Huyện ủy viên huyện Vũng Liêm, lãnh đạo Nhân dân nổi dậy cướp chính quyền ở huyện lỵ Vũng Liêm. Tuy khởi nghĩa thất bại nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí đã bắt đầu bộc lộ tư chất của một tài năng lớn. Trên cương vị Tỉnh ủy viên lâm thời tỉnh Rạch Giá, đồng chí đã xây dựng cơ sở cách mạng, huấn luyện lực lượng quân sự, mở rộng và phát triển căn cứ địa U Minh trở thành đầu não chỉ huy kháng chiến của các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, trên cương vị Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng Liên tỉnh miền Tây, đồng chí Võ Văn Kiệt được phân công trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu. Sau Hiệp định Giơnevơ, đồng chí Võ Văn Kiệt được Đảng phân công bí mật ở lại miền Nam, hoạt động bên cạnh đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy, tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Từ cuối năm 1959 đến đầu năm 1970, dưới sự chỉ đạo của Khu ủy T4, đứng đầu là Bí thư Võ Văn Kiệt, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã anh dũng chiến đấu lập nhiều chiến công vang dội buộc Đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân đội ra khỏi miền Nam. Sau Hiệp định Paris, trên cương vị là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu 9, đồng chí Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu đưa ra những quyết định mang tính lịch sử, Đánh địch lấn chiếm, giữ đất giữ dân; Mùa Xuân năm 1975, trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn, trên cương vị Ủy viên Đảng ủy đặc biệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh, đồng chí đã cùng Bộ Tư lệnh chiến dịch, chỉ huy năm cánh quân thần tốc tiến vào thành phố, phối hợp với sự nổi dậy của Nhân dân, buộc chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sau ngày đất nước thống nhất, trên cương vị Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh rồi Bí thư Thành ủy, đồng chí đã lãnh đạo đưa Thành phố dần đi vào ổn định. Sau này, trên các cương vị Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí luôn hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mà Đảng và Nhân dân giao phó. Đồng chí Võ Văn Kiệt với 86 tuổi đời, 69 tuổi Đảng, đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Võ Văn Kiệt luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân, sống giản dị, khiêm tốn, luôn đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, của Nhân dân lên trên hết; là một tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; một người cộng sản chân chính với trái tim nhân hậu mãi mãi ở trong lòng Nhân dân ta và bạn bè quốc tế. Nguồn: Báo Vĩnh Long điện tử

Vĩnh Long 4159 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Tiên Châu

Tiên Châu là một trong những ngôi chùa cổ ở Vĩnh Long, có lịch sử tồn tại khoảng 250 năm, tọa lạc trên một cù lao nhỏ được ôm ấp bởi hai nhánh của dòng Mêkông hùng vĩ là sông Tiền và sông Cổ Chiên, thuộc ấp Bình Lương, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Chùa Tiên Châu có tên chính thức là Di Đà Tự hay chùa Tô Châu. Gọi là Di Đà Tự vì chùa thờ Phật Di Đà - Giáo chủ cõi Tây Phương cực lạc. Còn gọi chùa Tô Châu là vì làng Bình Lương (nay là ấp Bình Lương, nơi ngôi chùa tọa lạc) xưa kia có những cây liễu rủ bóng xuống dòng sông phẳng lặng, phong cảnh đẹp và thơ mộng, gợi nhớ đến đất Tô Châu - Trung Quốc. Chùa Tiên Châu do Hòa thượng Đức Hội lập nên vào khoảng thế kỷ 19, với kiến trúc cổ gồm 4 nóc là tiền đường, chính điện, trung đường và hậu tổ. Các gian được bố trí theo kiểu tứ trụ, nới rộng hai chiều ngang dọc nhờ các kèo đầm, kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái lợp ngói âm dương. Nội điện chùa được bố trí rất đẹp, giữa tứ trụ là khánh thờ một tượng phật Di Đà rất lớn. Đâu lưng với khánh thờ Phật Di Đà là Phật Di Lặc cũng lớn như tượng Phật Di Đà. Hai bên khánh thờ Phật Di Đà là nơi thờ các vị Tiêu Diện Vương Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thập Điện Minh Vương, Nam Tào Bắc Đẩu, Quan Thánh Đế Quân, Chuẩn Đề Vương Bồ Tát Trung đường là nơi thờ các vị Sư tổ Bồ Đề Đạt Ma, Phật Thích Ca Mâu Ni, Tam Tạng, Quan Thế Âm Bồ Tát, các vị tổ sư tiền bối và thiện nam tích nữ đã quá vãng. Đây cũng là nơi tiếp khách nên được treo rất nhiều tranh khuyến thiện với những câu đối mang đầy ý nghĩa thâm trầm của cõi Phật. Qua thời gian, chùa Tiên Châu đã nhiều lần xuống cấp và cũng ngần ấy lần được trùng tu, sửa chữa. Trận chiến Mậu Thân năm 1968 đã gây thiệt hại không nhỏ cho chùa Tiên Châu. Đạn pháo từ thị xã Vĩnh Long và các tàu chiến khiến chùa loang lổ vết đạn, mái ngói bị đổ sập nhiều nơi. Sau đó, Ban hộ trì Tam bảo kết hợp với Hội Phật giáo Việt Nam quyết định trùng tu lại ngôi chùa. Theo đó, mặt tiền chùa được xây bằng bê-tông, có 3 giàn cửa sắt. Năm 1994, chùa Tiên Châu được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích Lịch sử - Văn hóa. Không chỉ nổi tiếng ở Vĩnh Long, chùa Tiên Châu còn nổi tiếng khắp vùng đồng bằng châu thổ sông Mêkông. Bên cạnh sự nổi tiếng về di tích, danh lam, kiến trúc… Tiên Châu Cổ Tự còn được biết đến bởi truyền thuyết Bãi Tiên. Theo truyền thuyết, làng Bình Lương ngày xưa phong cảnh hữu tình, khí hậu thuận lợi nên nhiều người đến đây tham gia khai hoang lập ấp. Họ rất lương thiện, cuộc sống cộng đồng rất hòa thuận nên nơi đây được gọi là làng Bình Lương. Người dân làng Bình Lương chủ yếu sinh sống bằng nghề chài lưới, đánh bắt cá tôm. Vào một đêm trăng sáng, trai tráng trong làng chèo thuyền ra sông đánh bắt cá. Trên bãi cồn, trong một căn lều nhỏ dưới gốc bần, một cụ già nằm thao thức. Từng cơn gió mát mẻ và se lạnh nhẹ thổi, mang theo mùi hương thoang thoảng của hoa lá, hòa quyện cùng bản giao hưởng du dương trầm bổng của côn trùng thổn thức trong lòng đất. Cụ nhìn ra bãi cát trắng xóa lấp lánh dưới ánh trăng, chợt thấy những bóng trắng mờ ảo của bao nàng con gái đang thướt tha, uyển chuyển bay lượn, vui chơi trên bãi cát - Tiên giáng trần! Câu chuyện được truyền đi trong làng, sau đó lan xa trong thiên hạ. Từ đó, bãi cát trên khúc sông này được gọi là Bãi Tiên. Nguồn: Du lịch Vĩnh Long

Vĩnh Long 3729 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Ông Mẹt

Chùa Ông Mẹt tọa lạc tại Phường 1, thành phố Trà Vinh. Tên gọi theo Phạn ngữ của ngôi chùa này là Bodhisàlaraja, người Khmer vẫn quen gọi là Wat Kompong, dịch nghĩa là Chùa Bến. Chùa Ông Mẹt là trung tâm Phật giáo Khmer tỉnh và được chọn đặt Văn phòng Trị sự Phật giáo Khmer hệ phái Mahanikay. Đầu thế kỷ 20, khi Thánh đường Công giáo được nhà cầm quyền thực dân đầu tư xây dựng thì cộng đồng phum sóc Khmer cũng chung sức xây dựng ngôi chùa Ông Mẹt trang nghiêm, bề thế như một hình thức tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc. Ngôi chùa gồm nhiều kiến trúc hài hòa nhau bao quanh ngôi chánh điện, trong khuôn viên rộng gần 1,3 ha có vòng tường kín bao bọc chung quanh. Cổng chùa Ông Mẹt là một kiến trúc đẹp với 8 trụ cột nâng đỡ mái cổng và chia cổng thành lối đi chính ở giữa rộng và hai lối đi nhỏ hơn ở hai bên. Trên đầu mỗi cột đều trang trí Chim thần Keyno hai mặt luôn tươi cười đón khách. Hai bên cổng là hai bờ tường vừa thấp dần vửa mở rộng, trang trí bởi cặp rắn bảy đầu theo phong cách nghệ thuật Khmer truyền thống. Chánh điện chùa Ông Mẹt quay mặt về hướng đông và được xây dựng trên nền tam cấp. Nền cấp một bằng đá xanh cao 1,35 m được bao bọc bởi hàng rào sắt cao gần 2 m và trên mỗi đầu cột rào đều có hình Bhrama bốn mặt. Trên bệ thờ bên trong ngôi chánh điện là cốt tượng Đức Phật Thích Ca uy nghi trên tòa sen cao 4,4 m; dài 5 m và rộng 4,3 m. Chung quanh tượng lớn này còn có nhiều tượng Phật nhỏ hơn bằng nhiều chất liệu như đá, xi măng, đồng, gỗ… với nhiều kích thước và tư thế khác nhau. Phía sau chánh điện là Thư viện với lối kiến trúc độc đáo nhà sàn gỗ truyền thống của đồng bào Khmer Nam bộ xưa. Toàn bộ 24 đầu cột, xiên tâm, xiên dọc… đều được chạm khắc công phu, sơn son thếp vàng. Thư viện có ba gian, gian giữa là nơi chứa sách, trong đó có nhiều thư tịch cổ; hai gian hai bên là nơi đọc sách, học tập của các vị sư sãi và bà con trong phum sóc. Trong khuôn viên chùa Ông Mẹt còn có một số kiến trúc như tăng xá, Văn phòng Trị sự Phật giáo hệ phái Mahanikay, giảng đường, sala thờ Neakta, tháp tưởng niệm… Xuất phát từ chùa Ông Mẹt, phong trào đấu tranh đòi dạy và học chữ Phạn, chữ Khmer lan rộng khắp các nhà chùa, các phum sóc trong tỉnh, chống lại chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp. Sau đó, không chỉ dạy và học chữ Khmer mà chữ quốc ngữ cũng được đưa vào giảng dạy, tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc thuận lợi hơn trong việc học tập, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Vừa học chữ, học kiến thức, các thế hệ sư sãi Khmer tại chùa Ông Mẹt còn được chú trọng nâng cao lòng yêu nước, ý chí căm thù kẻ xâm lược. Do đó, ngôi chùa này là nơi xuất phát phong trào đấu tranh chính trị của sư sãi, đồng bào Khmer trong tỉnh và là nơi che chở cho rất nhiều thanh niên các dân tộc trong tỉnh không phải đi lính cho địch trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ. Chính vì vậy, khi trận tiến công Xuân Mậu Thân đang diễn ra, kẻ thù cho máy bay ném bom gây hư hại nặng. Chùa Ông Mẹt đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 2009. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3869 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ CHÙA PHNÔ OM PUNG (SIRIVANSARÀMA)

Chùa Phnô Om Pung (Sirivansaràma) hay còn gọi là chùa Long Trường, tọa lạc tại ấp Long Trường, xã Tân Hiệp, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Chùa được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 15/3/2016. Tháng 8 năm 1945, lực lượng Thanh niên Tiền phong, quần chúng nhân dân xã Long Hiệp và khoảng 30 vị sư của chùa Phnô Om pung, trong đó có sư cả đã dùng các loại vũ khí thô sơ như gậy gộc, tầm vông vạt nhọn, súng giả nổi dậy biểu tình thị uy rầm rộ. Trước sức ép mạnh mẽ của quần chúng nhân dân và sự vận động tích cực, nhiệt tình của các vị sư, bọn Tề xã đã giao lại chính quyền cho cách mạng. Tháng 9/1946, Chi bộ xã Long Hiệp đầu tiên được thành lập, Chùa Phnô Om Pungbộ đã được chọn làm cơ sở nuôi chứa, bảo vệ lực lượng cách mạng. Trong giai đoạn từ năm 1946 đến 1950, tiểu đoàn 310 thuộc lực lượng quân khu 9 đánh trận Nômen, có sự tham gia của quân du kích địa phương, phật tử và sư sãi của chùa Phnô Om Pung. Trong trận đánh này, lực lượng của ta đã giành thắng lợi. Tháng 4/1953, dựa vào bọn gián điệp chỉ điểm nên bọn địch phục kích và bắt được đồng chí Thạch Ngọc Biên đang trú ẩn trong tủ tại chùa Phnô Om Pung. Lúc này chúng tra tấn đồng chí trước sân chùa đến ngất xỉu. Thấy vậy, sư cả vận động các vị sư sãi trong chùa biểu tình để gây áp lực cho bọn địch. Do đã bắt được lực lượng cách mạng của ta trú ẩn ngay tại chùa, nên bọn địch xem chùa là cái gai trong mắt, chúng luôn tìm mọi cách lùng sục, bắt bớ, bắn phá chùa. Cũng trong năm này chùa bị bắn cháy hoàn toàn, có 5 phật tử và 2 vị sư của chùa bị thương. Sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, lực lượng cách mạng gặp nhiều khó khăn, địch bắt bớ giam cầm nhiều cán bộ, tìm mọi cách cô lập gia đình kháng chiến. Tuy vậy, nhiều gia đình không ngại khó khăn gian khổ, chấp nhận hy sinh để nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng trong đó có sư sãi chùa Phnô Om Pung. Nhà chùa làm hầm bí mật để nuôi chứa cán bộ cách mạng. Đặc biệt, trong chính điện là nơi tôn nghiêm nhất, nhưng các vị sư đã không ngại nuôi chứa cán bộ trong hầm dưới tượng Phật Thích ca. Năm 1960, chùa Phnô Om Pung được lực lượng cách mạng chọn làm địa điểm in ấn nhiều loại truyền đơn, khẩu hiệu và nuôi chứa bảo vệ cán bộ cách mạng đóng tại chùa. Từ năm 1961 - 1968, chi bộ vận động nhường cơm xẻ áo và chia cấp ruộng đất cho nhân dân, chùa Phnô Om Pung cũng tích cực tham gia đóng góp để cung cấp lương thực cho lực lượng cách mạng. Trong lúc này, tại chùa mở trường dạy học giáo lý, pali và các lớp phổ thông. Thông qua các lớp học này, các vị sư sãi và cán bộ cơ sở đã tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, giải thích âm mưu thâm độc của kẻ thù, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng. Từ những lớp học này nhiều người sau đó trở thành những cán bộ chiến sĩ cách mạng. Giai đoạn 1969 - 1971, Phnô Om Pung tiếp tục nuôi chứa bảo vệ nhiều cán bộ của xã, huyện và tỉnh. Qua hai cuộc kháng chiến các vị sư sãi và phật tử bất chấp những khó khăn nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng và tham gia kháng chiến. Chùa Phnô Om Pung đã đóng góp một phần vào công cuộc giải phóng đất nước. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3647 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng chùa Bào Môn

Chùa Bào Môn cò gọi là chùa Đom Bon Bak tọa lạc ở ấp Bào Môn, xã Đôn Châu, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Ngay từ những ngày đầu khi Chi bộ xã Đôn Châu thành lập, Chi bộ đã đến chùa Bào Môn để xây dựng cơ sở hoạt động hợp pháp, làm nơi nuôi chứa cán bộ đồng thời vận động các nhà sư lập ra Ban Tăng sự yêu nước tỉnh, tổ chức biểu tình chống bắt lính, đòi giảm tô giảm thuế. Năm 1946 – 1950, thông qua các lớp học, chi bộ đã tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, giải thích âm mưu thâm độc của kẻ thù, giáo dục lòng yêu nước, tinh thần cách mạng cho thanh niên. Từ những lớp học này nhiều người sau đó trở thành những cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Năm 1951, trong trận càn vào ấp Bào Môn và ấp Mồ Côi, xã Đôn Châu địch bắn chết một số cán bộ, sư cả chùa Bào Môn đã vận động phật tử đưa xác các cán bộ về chùa tổ chức mai táng. Sau đó trong một trận càn của lính Commendo thì nhà chùa đã đưa một số cán bộ vào các tháp, và trần chính điện ẩn náu. Nhiều cán bộ cách mạng trong kháng chiến chống Pháp đã được nhà chùa nuôi chứa, đùm bọc, chở che. Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, chùa Bào Môn tiếp tục là cơ sở vững chắc của cách mạng. Nhiều hầm bí mật được làm trong khuôn viên chùa, dưới bệ thờ Phật, trên trần chính điện và ngay trong phòng của sư cả. Cuối năm 1968, địch phát hiện lực lượng du kích đóng tại chùa, chúng đưa quân đến bao vây và kêu gọi đầu hàng. Trước tình thế khó khăn đó, với sự nhạy bén, sư cả cho tiểu đội du kích xuống xi-tẹt nước trước chính điện, rồi bằng những lời lẽ khéo léo, kiên quyết, sư cả giải thích cho bọn địch hiểu đây là nơi tu hành, mình là người Khmer phải tôn trọng người tu hành và chùa chiền. Trước những lý lẽ thuyết phục của sư cả, bọn địch cũng không tìm được chứng cớ đành phải rút đi trong sự tức giận. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Trà Vinh, hòa thượng Kim Tốc Chơn – Trưởng Ban Sãi vận tỉnh đã phân công sư Lâm Rường Sơn (chùa Bào Môn) cùng các vị sư Sơn Song, Thạch Sương, Sơn Sa Ra vào dinh tỉnh trưởng thuyết phục tên Nguyễn Văn Sơn tỉnh trưởng Vĩnh Bình kêu gọi ngụy quân, ngụy quyền đầu hàng góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho kháng chiến” bà con phật tử, sư sãi chùa Bào Môn đã đóng góp hàng chục lượng vàng, hàng ngàn giạ lúa và nhiều vật dụng khác. Có 25 vị sư và phật tử đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Riêng sư cả được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huy chương vì sư nghiệp phát triển dân tộc. Chùa Bào Môn được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 10/6/2005. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 3635 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích lịch sử Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu

Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu thuộc ấp Cồn Trứng, xã Trường Long Hòa, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Tháng 7/1959, để chi viện nguồn lực cho cách mạng miền Nam trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Bộ Chính trị ra quyết định thành lập đơn vị vận tải quân sự trên biển – Đoàn 759 (sau đổi thành Đoàn 125). Đến đầu năm 1961, Trung ương ra chỉ thị cho các tỉnh gồm Bà Rịa, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau chuẩn bị bến bãi và tổ chức tàu thuyền ra Bắc để thăm dò đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Tháng 9 năm 1962, đồng chí Phạm Thái Bường, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam ra quyết định thành lập Đoàn 962 quản lý các bến tiếp nhận vũ khí các tỉnh. Bến Trà Vinh do đồng chí Lê Văn Sến (Năm Sến) – Phó chính ủy Đoàn 162 trực tiếp phụ trách. Thời gian này, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định chọn 2 xã ven biển là Trường Long Hòa và Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải (nay là các xã: Trường Long Hòa, Dân Thành thuộc thị xã Duyên Hải; xã Đông Hải, Long Vĩnh thuộc huyện Duyên Hải) để mở bến tiếp nhận vũ khí. Cụm Bến 1 thuộc khu vực vàm Rạch Cỏ – La Ghi, cụm Bến 2 thuộc khu vực Phước Thiện, Hồ Tàu, Khâu Lầu, Láng Nước. Những khu vực này là vùng căn cứ cách mạng, luôn là mục tiêu tấn công của địch vì vậy việc che giấu, vận chuyển vũ khí vô cùng gian nan vất vả. Ngày 17 tháng 3 năm 1963, Bến Trà Vinh tiếp nhận chuyến tàu đầu tiên vào vàm Phước Thiện. Với địa thế sông ngòi chằng chịt, rừng ngập mặn nhiều cây thấp có thể cho tàu có trọng tải lớn ép vào để ngụy trang, con tàu đã được cất giấu an toàn. Tiếp đó là chuyến thứ hai vào vàm Láng Nước chở theo 70 tấn vũ khí. Từ năm 1963 đến 1966, Bến Trà Vinh đã đón 16 chuyến với 689 tấn hàng. Riêng Bến Cồn Tàu đón 10 chuyến, trong đó năm 1963 đón 4 chuyến, năm 1964 đón 6 chuyến. Tuy hoạt động chỉ trong thời gian ngắn, nhưng Bến Trà Vinh là một mắc xích quan trọng của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển và Bến Cồn Tàu là trọng tâm của mắc xích quan trọng ấy. Năm 2004, Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Đến năm 2010, Khu di tích Bến tiếp nhận vũ khí Cồn Tàu được đầu tư xây dựng, đưa vào hoạt động với diện tích 1,2 ha gồm Bia tưởng niệm và Nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật gắn liền với chiến công của quân dân Trà Vinh đối với tuyến Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến tham quan khu di tích, du khách có thể thắp nén hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh khi làm nhiệm vụ trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, tham quan Nhà trưng bày, nhìn Bia tưởng niệm vươn cao trong nắng mới như nhắc nhớ chiến công năm xưa và truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 3939 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Phước Mỹ Tự

Di tích chùa Phước Mỹ thuộc ấp Bến Chùa, xã Hiệp Mỹ Tây, huyện Cầu Ngang. Chùa Phước Mỹ còn gọi là chùa Cây Quăn hay chùa Bà Sở. Gọi là chùa Cây Quăn là vì trước đây bên bờ sông phía trước chùa có cây quăn lớn nên bà con lấy đặc điểm này gọi tên chùa. Gọi là chùa Bà Sở vì ngôi chùa do bà Phạm Thị Đồ còn gọi là Bà Sở một lưu dân người Gò Công về đây lập nghiệp tạo dựng vào năm 1886. Ngôi chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng hơn 1 hécta, phía trước là sông Thâu Râu. Bến sông trong kháng chiến là Khu Căn cứ Tỉnh ủy (Khu Căn cứ Ấp 5, Mỹ Long). Cách chùa khoảng 500m về phía Nam là khu Căn cứ Huyên ủy (Khu Căn cứ Rẫy Tiều). Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ngôi chùa là cơ sở của cách mạng, là địa điểm dừng chân đóng quân của nhiều đơn vị. Các nhà sư, phật tử hết lòng đùm bọc, chở che và đóng góp tiền của phục vụ kháng chiến. Mọi người luôn tin tưởng vào Đảng vào sự nghiệp cách mạng, vì vậy nơi đây là chỗ dựa để Huyện ủy Cầu Ngang xây dựng khu căn cứ kháng chiến. Ngay khi Chi bộ Hiệp Mỹ ra đời, Chi bộ đã chọn chùa là một trong những địa điểm hội họp, tuyên truyền phát động các phong trào đấu tranh và được quần chúng nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ phong trào cách mạng lắng xuống, chùa Bà Sở đón đồng chí Tám Sự được trên điều về vào trụ trì chùa nhằm che mắt địch hoạt động gầy dựng lại cơ sở. Đồng chí được bà con phật tử nuôi chứa, chở che. Trong công cuộc “Trường kỳ kháng chiến” để khống chế phong trào cách mạng trong vùng, tháng 6/1951 thực dân Pháp đưa bọn Leon Leroy từ Bến Tre sang dùng tàu theo sông Thâu Râu vào đóng đồn tại chùa Bà Sở. Nhưng chỉ một tháng sau với sự hỗ trợ của bà con phật tử, Đại đội 380 của ta đã tập kích đồn làm địch thương vong nặng. Bước sang giai đoạn chống Mỹ chùa Bà Sở tiếp tục là trụ sở, là địa điểm dừng chân đóng quân của nhiều cơ quan như: Huyện đội, hậu cần, dân y, công trường huyện, Xã ủy, Huyện ủy, Tỉnh ủy… Cũng tại chùa, ngày 5/12/1974 đồng chí Nguyễn Trường Thọ, Phó Bí thư Tỉnh ủy, chính trị viên tỉnh đội tổ chức cuộc họp với Thường vụ Huyện ủy, ban chỉ huy các Tiểu đoàn 501, 512, 509 triển khai kế hoạch giải phóng nông thôn, giải phóng Cầu Ngang. Vì nằm trong vùng căn cứ lại là địa điểm đóng quân của ta, cho nên trong kháng chiến ngôi chùa cũng là mục tiêu càn quét, bắn phá của địch. Nhiều lần chùa bị bom đạn làm hư hỏng, có giai đoạn địch chiếm chùa làm trụ sở. Thế nhưng các sư và phật tử vẫn tin tưởng vào Đảng, bất chấp hy sinh đùm bọc, chở che bảo vệ cơ sở cách mạng. Chính nơi đây đã khởi xướng nhiều phong trào đấu tranh chính trị, phong trào bao vây bức rút đồn bót, phong trào phá ấp chiến lược. Ngoài ra, nhà chùa và bà con phật tử cũng đóng góp nhiều của cải cho cách mạng. Với những thành tích đó, ngày 10/12/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận chùa Phước Mỹ (chùa Bà Sở) là di tích lịch sử cấp tỉnh. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3539 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Giác Linh (Chùa Dơi)

Chùa Giác Linh tọa lạc trên một động cát cao thuộc ấp Nhứt A, xã Mỹ Long Bắc, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Chùa Giác Linh còn gọi là chùa Dơi vì trước đây trong khuôn viên chùa có rất nhiều loài chim trú ngụ trên các cây cổ thụ trong đó có loài dơi quạ, cho nên bà con lấy đặc điểm này để gọi tên chùa. Bước vào cổng chùa, bên phải là tượng Quan Thế Âm Bồ Tát khá lớn, đang mở lòng từ bi bát ái đem phép mầu nhiệm cứu độ chúng sinh. Đi thêm vài chục mét, ta sẽ gặp ngôi chùa. Chùa dựng trên một khoảnh đất cao, được bao quanh um tùm bởi nhiều loại cây: mã tiền, mù u, nhọc, tre tạo nên nét u tịch, linh thiêng. Vào trong chùa, ta sẽ nhận thấy được nét khác biệt của chùa Giác Linh với những chùa Phật khác. Bàn thờ Phật không bố trí tượng thờ theo thứ tự: Tam Thế Phật, Di Đà, Tam Tôn như ở những chùa Phật Đại thừa (Mahayana) thường có. Chùa không chỉ thờ Đức Phật cùng những vị liên quan đến Phật giáo: Bồ Tát, La Hán mà còn thờ cả Khổng Tử, Lão Tử, và dung hợp cả tín ngưỡng dân gian: Bà Chúa Xứ, Táo Quân, Cậu Tài, Cậu Quí. Chính từ cách nghĩ của những nhà tu, cho nên phật tử không chỉ chú trọng việc đạo mà cả việc đời. So với những ngôi chùa khác về qui mô xây dựng, giá trị kiến trúc, điêu khắc thì chùa Giác Linh quả khiêm tốn. Chùa chỉ có bộ bao lam bằng gỗ sơn son thiếp vàng với đề tài tứ linh là đáng nói. Tuy nhiên, ngôi chùa thật giàu thành tích cách mạng. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, Linh Sơn Điện đã là tụ điểm hội họp, sinh hoạt của những nghĩa sĩ yêu nước chống Pháp trong tổ chức Thiên Địa Hội. Năm 1922, tổ chức Thanh Niên Đỏ của tỉnh được thành lập nơi đây, trong đó có đồng chí Dương Quang Đông. Rồi một trong ba Chi bộ Cộng sản đầu tiên của Trà Vinh – Chi bộ Mỹ Long cũng chọn địa điểm này hội họp thường xuyên trong những năm đầu thành lập. Và trong cuộc biểu tình của 300 nông dân năm 1931 đòi dân sinh, dân chủ băng rôn, cờ búa liềm bay trên rào chùa. Đến năm 1934 – 1935, chùa lại được chọn làm trụ sở của cơ quan Liên Tỉnh uỷ Vĩnh – Trà – Bến. Giai đoạn cận Cách mạng Tháng 8 năm 1945, để nắm bắt thời cơ khởi nghĩa giành thắng lợi, ngôi chùa lại chứng kiến một cuộc họp trù bị nhằm củng cố lại Xứ uỷ, do đồng chí Dương Quang Đông triệu tập. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ni cô Phụng – một bậc chân tu của chùa đã dùng tiếng mõ làm tín hiệu triệu tập hoặc giải tán cán bộ cách mạng khi hội họp hay lẩn tránh lúc có động. Sang giai đoạn chống Mỹ cứu nước, ni cô Phụng trở thành ni sư trụ trì chùa, dưới sắc áo nhà tu đã che mắt bọn địch bằng những chuyến hành hương, để vận chuyển vũ khí cho tổ chức cách mạng. Những năm 1966 – 1967 chiến tranh ác liệt, mặt phía tây nam trong khuôn viên chùa có một hệ thống chiến hào dài hơn 300m được đào nhằm chống lại các cuộc hành quân, càn quét của địch. Cũng trong giai đoạn này, dựa vào sự tĩnh mịch của chốn tu hành, sự um tùm của cây cối, hàng chục hầm bí mật được đào trong khuôn viên chùa để cán bộ ẩn tránh. Đặc biệt, cả đại hồng chung cũng được nhà chùa hiến cho công trường chế tạo vũ khí đánh giặc. Năm 1970, địch đến đóng đồn sát rào chùa, nhằm khống chế cách mạng vùng Mỹ Long và cũng để theo dõi các nhà tu hành. Dù vậy, ni sư Phụng vẫn một lòng một dạ bám trụ chùa, để một năm sau ta đã công kích bọn chúng phải bỏ đồn rút chạy. Chùa Giác linh được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 24/01/1998. Chốn Thiền môn bất cấm vô duyên khách này giờ đây luôn rộng cửa đón chúng ta đến suy ngẫm về đạo về đời. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 4094 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chùa Teakhinasakor Ta Lôn

Chùa Teakhinasakor Ta Lôn (Cái Cối) tọa lạc ở ấp Cái Cối, xã Long Vĩnh, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Trong những năm kháng chiến, ngôi chùa không chỉ là cơ sở hoạt động bí mật, địa điểm nuôi chứa, bảo vệ cán bộ cách mạng, mà còn là nơi xuất phát nhiều phong trào đấu tranh chính trị. Ngay từ khi Chi bộ xã Long Vĩnh được thành lập (04/9/1933), Chi bộ bàn với sư cả Triệu Minh Tên chọn chùa làm cơ sở hoạt động hợp pháp của cách mạng, tổ chức nuôi chứa, bảo vệ cán bộ và mở các lớp học cho sư sãi, con em trong vùng. Thông qua các lớp học này, ngoài việc học chữ, giáo lý các thầy còn tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, âm mưu thâm độc của kẻ thù. Nghi ngờ chùa Ta Lôn là cơ sở của cách mạng, năm 1943, tiến hành lục soát ngôi chùa nhưng không phát hiện được gì, chúng tức giận cho đốt cháy ngôi chánh điện và một tăng xá. Hành động của địch càng làm tăng thêm nỗi căm hờn trong sư sãi, phật tử và quần chúng nhân dân nơi đây. Năm 1948, ngôi chùa một lần nữa bị địch đến lục soát. Cũng như lần trước, không tìm thấy chứng cứ tên Prụm Yên cầm đầu lại cho lính đốt ngôi chính điện. Sang thời kỳ chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Long Vĩnh, cơ sở cách mạng chùa Ta Lôn không ngừng phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất. Đầu năm 1955, địch ráo riết khủng bố quần chúng, trả thù những người kháng chiến gây cho ta một số thiệt hại. Để đối phó với tình hình, các vị sư chùa Ta Lôn bất chấp khó khăn, nguy hiểm và cả tính mạng của mình đã tổ chức nuôi chứa cán bộ ngay tại phòng riêng của mình. Năm 1959, địch mở cuộc hành quân ruồng bố thẳng tay bắn phá, giết người cướp của và bắt những người dân mà chúng tình nghi là “cộng sản nằm vùng”. Trong chiến dịch này, bọn chúng đã bắt sư cả Sơn Hiến và 4 vị sư cùng 3 phật tử chùa Ta Lôn. Cuối năm 1960, tại sân chùa Tà Lôn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng xã Long Vĩnh được thành lập và ra mắt trước hơn 500 đại biểu quần chúng. Trong buổi lễ có hơn 20 vị sư do sư cả nhì Sơn Thượng lãnh đạo khi hoàn tục đã tình nguyện tham gia kháng chiến giải phóng dân tộc. Tháng 02/1962, không thực hiện được ý đồ gom dân vào ấp chiến lược, địch bỏ thuốc độc vào nguồn nước ngọt làm chết 2 trẻ em và 1 vị sư chùa Ta Lôn. Tháng 5/1964, địch cho máy bay ném bom và tàu thủy quân lục chiến đậu ở cửa biển Định An nã đạn pháo vào chùa Tà Lôn làm hàng chục ngôi nhà, chủ chùa là ông Sơn Rượng chết cùng 8 phật tử bị thương. Ngôi tha la bị cháy rụi và chánh điện bị sụp đổ một phần. Những năm 1965-1968, địch mở nhiều cuộc hành quân càn quét và sử dụng máy bay phun thuốc khai hoang, rải chất độc màu da cam. Ngày 22/02/1966, 18 vị sư và hơn 100 phật tử của chùa kéo ra khu trù mật Cái Đôi đấu tranh với địch. Cuộc đấu tranh của sư sãi và đồng bào Khmer Long Vĩnh được sư sãi và đồng bào Khmer cả tỉnh hỗ trợ nên đã giành thắng lợi. Với những thành tích đóng góp cho sự nghiệp giải phóng đất nước, các vị sư và phật tử chùa Ta Lôn được Nhà nước tặng nhiều bằng khen, huân, huy chương. Ngày 18/4/2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận chùa Ta Lôn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3662 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa