Di tích lịch sử

Việt Nam

Di tích Miếu Tiền Vãng

Miếu Tiền Vãng còn gọi là miếu Tiên Sư, tọa lạc trong khuôn viên trường Tiểu học Lê Văn Tám thuộc khóm 1, phường 1, thành phố Trà Vinh. Ngược dòng lịch sử khi thực dân Pháp vào Đông Dương rồi đặt chân lên đất Trà Vinh vấn đề đặt ra là họ cần có một số người biết tiếng Pháp, tiếng Việt phục vụ trong bộ máy chính quyền. Ban đầu họ tuyển chọn những người biết tiếng Pháp, tiếng Việt ở các nhà thờ công giáo, nhưng nhu cầu ngày càng nhiều, vì vậy nền giáo dục Pháp – Việt ra đời vào những năm cuối thế kỷ 19. Ngôi trường để đào tạo ở Trà Vinh là Ecole primaire Complementaire de Tra Vinh. Theo thời gian học sinh ngày một đông, ngôi trường cũng được mở rộng, nhiều thế hệ thầy cô giáo cũng đã ra đi vì bom đạn, khói lửa của chiến tranh. Năm 1943, với lòng tôn sư trọng đạo bằng sự tâm huyết của các vị giáo chức trong đó có công lao rất lớn của thầy Phạm Văn Lược, thầy Vương Hảo Thuận và thầy Võ Văn Hợi đề xuất và tiến hành xây dựng ngôi miếu thờ phụng các thầy cô giáo. Để có kinh phí xây dựng ngôi miếu, thầy Phạm Văn Lược và thầy Vương Hảo Thuận đã xin quan đầu tỉnh lúc bấy giờ cho tổ chức “Hội chợ phiên” trong khuôn viên của trường và xin giữ lại một phần kinh phí. Sau một thời gian gom góp, hai thầy đã cho khởi công xây dựng ngôi miếu theo bản thiết kế của thầy Võ Văn Hợi. Sau gần nửa năm thi công đến cuối năm 1943 ngôi miếu được hoàn thành. Tọa lạc giữa sân trường là ngôi miếu nhỏ quay mặt về hướng Nam. Kết cấu ngôi miếu theo kiểu tứ trụ đâm chái, khung sườn chịu lực, cửa vách đều bằng gỗ. Mái lợp ngói âm dương tiểu đại, bịt đầu mái là loại ngói có tráng men màu xanh ngọc dạng cánh sen. Nền miếu lát gạch. Đặc biệt, hai bên tả hữu ngôi miếu còn có hai giàn trống chiêng. Bên tả là giá trống, bên hữu là giá chiêng. Giá trống chiêng thiết kế theo kiểu nhị long cửu đao. Cửa miếu treo tấm biển đại tự ký ức bất vong viết bằng chữ Hán. Trong miếu, ngay giữa là bàn thờ, phía sau là tấm bia đá. Tấm bia đá này trước kia có đính tên 139 thầy cô giáo, có cả giáo viên người Pháp, người Việt, người Hoa, người Khmer đã có công trong sự nghiệp giáo dục và đã qua đời, nhưng hiện nay những bảng đồng đính vào bia không còn, chỉ sưu tầm được một số danh tính thầy cô. Cũng như nhiều công trình khác, thời gian đồng hành với hư hỏng. Từ ngày xây dựng đến nay, ngôi miếu đã qua ba lần trùng tu, sửa chữa nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Miếu Tiền Vãng biểu trưng độc nhất vô nhị trên đất Trà Vinh – biểu trưng của lòng tôn sư trọng đạo, nơi ghi công, tôn vinh các thế hệ thầy cô giáo có công trong sự nghiệp giáo dục, được Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 10/12/2004. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Trà Vinh

Vĩnh Long 3911 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Chùa Ông (Chùa Phước Minh Cung)

Phước Minh cung còn có các tên gọi khác là Chùa Quan Thánh đế hay Chùa Ông là cơ sở tín ngưỡng tiêu biểu của cộng đồng người Hoa trên địa bàn tỉnh Trà Vinh. Như tên gọi chùa Quan Thánh đế, vị thần chính được thờ tại Phước Minh cung là Quan Công, tức Quan Vũ hay Quan Vân Trường – viên tướng văn võ song toàn, nổi tiếng trung hiếu tiết nghĩa của lịch sử Trung Hoa thời Tam quốc. Cùng được phối tự với Quan Thánh đế tại Phước Minh Cung còn có Phước đức chính thần, Chúa sanh nương nương và hai vị tùy tướng của Quan Thánh đế là Quan Bình và Châu Xương. Phước đức chính thần trong quan niệm của người Hoa ở Trà Vinh là sự đồng nhất giữa Thổ công, Thần tài và Bổn đầu công. Riêng Bổn đầu công, hay còn gọi là ông Bổn là viên quan có tên Trịnh Tu Hòa – người được hoàng đế nhà Minh cử đi thương thuyết với triều đình các nước Đông Nam Á tạo điều kiện cho Hoa kiều làm ăn, sinh sống. Phước sanh nương nương hay còn gọi là Mẹ Thai sanh, trong quan niệm của người Hoa, là vị nữ thần cai quản việc sinh đẻ, nuôi dưỡng trẻ con. Phước Minh cung tọa lạc tại số 44 đường Điện Biên Phủ, Phường 3, thành phố Trà Vinh. Khuôn viên ngôi chùa rộng hơn 800 m2, chùa có kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc (bên trong là chữ Công, vòng ngoài là chữ Quốc). Mặt bằng tổng thể gồm ba tòa nhà tiền điện, trung điện và chính điện song song nhau; dọc hai bên có hai dãy nhà Tả điện và Hữu điện đối diện nhau, tạo thành hình chữ Khẩu. Giữa các tòa nhà có sân thiên tĩnh và hành lang thông thương nhau. Toàn bộ các tòa nhà đều thiết kế theo tầng bậc và lợp ngói lưu ly. Mặt dựng đầu hồi trang trí bằng các đồ án truyền thống Trung Quốc như lưỡng long tranh châu, bát tiên, hoa lá, muông thú. Tiền điện có 16 trụ cột bằng gỗ lim sơn màu son, trong đó có 4 cột vuông trên tảng đá tròn và 12 cột tròn trên tảng đá vuông, biểu trưng của âm dương hòa hợp. Tiền điện là nơi thờ Ngọc hoàng thượng đế ở án giữa cùng phối tự Tiên hiền – Hậu hiền hai bên tả hữu. Trung điện là tòa nhà nhỏ hình vuông, có bốn cột đều vuông trên tảng đá tròn. Đây là nơi thiện nam tín nữ thập phương tề tựu chuẩn bị lễ vật cúng tế trước khi bước vào ngôi Chính điện. Chính điện là tòa nhà cân đối với Tiền điện với 16 cột tròn trên tảng đá vuông. Ngôi chính điện được chia thành ba gian: – Gian trung tâm đặt án thờ Quan Thánh đế quân dưới bức đại hoành phi bằng chữ Hán Càn khôn chính khí. Ba pho tượng Quan Vân Trường ở giữa cùng Quan Bình, Châu Xương hầu hai bên với ngựa Xích thố bằng mây. – Gian trái đặt án thờ Chúa sanh nương nương dưới bức hoành phi Tải sinh tải dục bằng chữ Hán. – Gian phải đặt án thờ Phúc đức chính thần dưới bức hoành phi Uy linh uy đức bằng chữ Hán. Phước Minh cung thực sự là một Bảo tàng mỹ thuật truyền thống của cộng đồng người Hoa trên địa bàn Trà Vinh cũng như cả Nam bộ. Với các giá trị văn hóa về nghệ thuật kiến trúc, hội họa, điêu khắc, âm nhạc truyền thống cũng như vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa tâm linh của cộng đồng người Hoa, vai trò củng cố tình đoàn kết các dân tộc cùng cộng cư trên vùng đất Trà Vinh, Phước Minh cung đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2005. Nguồn: Du lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 3861 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thờ Bác Hồ

Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Long Đức (Trà Vinh) tọa lạc ở ấp Vĩnh Hội, xã Long Đức, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh; cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 5 km về hướng Bắc. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh tỉnh Trà Vinh đã được Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 1989. Khu di tích đền thờ Bác Hồ rộng 5,4 ha với các hạng mục chính như: Đền thờ Bác Hồ, nhà trưng bày thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh, khuôn viên cây xanh, ao cá, khu vui chơi cắm trại và đặc biệt là mô hình Nhà sàn Bác Hồ được thiết kế, in sao và lắp khoa học với tỉ lệ 97 phần trăm theo nguyên bản nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch ở thủ đô Hà Nội. Khuôn viên đền thờ rất rộng với những hàng cây rợp bóng quanh bờ hồ gợn sóng lăn tăn. Nơi được chia làm nhiều khu khác nhau, nhưng toàn bộ nơi đây đều nhắc nhớ tới công ơn đời đời của Bác – vị cha già kính yêu của toàn dân tộc Việt. Những hiện vật nơi đây vẫn nguyên vẹn như ngày đầu: chiếc máy bay B52 mà quân đội ta đã bắn rơi, chiếc xe tăng của cuộc chiến năm ấy, ngôi nhà sàn gỗ mà bác Hồ từng sống. Nhà Trưng bày được xây dựng theo kiến trúc truyền thống dân tộc. Trong đó, nhiều hiện vật, hình ảnh, tài liệu giúp người tham quan hiểu được một cách khái quát về cuộc đời hoạt động của Bác; truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất trong kháng chiến và những thành tựu trong công cuộc đổi mới của Đảng bộ, nhân dân tỉnh Trà Vinh; quá trình xây dựng và chiến đấu bảo vệ ngôi Đền. Nơi đây còn trưng bày những bức ảnh trắng đen thắm đượm tình quân dân, khung cảnh chiến tranh tàn khốc mà người dân nơi đây trải qua. Công viên với hồ sen lớn hài hòa cùng hệ thống cây xanh, hoa kiểng quanh năm khoe sắc tạo ra khu vui chơi, giải trí đa dạng, hấp dẫn. Trong đó, những tán cây cổ thụ và lũy tre bao quanh cùng hệ thống hầm hào, công sự là chứng nhân của quá trình xây dựng, chiến đấu bảo vệ ngôi Đền được phục hồi và bảo quản một cách nghiêm túc, chu đáo. Đền thờ Bác Hồ đã trở thành niềm tự hào, là biểu trưng của tấm lòng người dân Trà Vinh đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nguồn: Du lịch Trà Vinh

Vĩnh Long 4004 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Bảo Tàng Tỉnh Bến Tre

Bảo tàng Bến Tre được thành lập năm 1981, tọa lạc tại số 146 đường Hùng Vương, phường An Hội, thành phố Bến Tre với diện tích khoảng 20.000m2. Mặt chính Bảo tàng hướng về phía sông Bến Tre với những cây cổ thụ tỏa bóng mát cùng nhiều hoa kiểng tươi tốt, quý giá - cảnh sắc nên thơ, nhẹ nhàng, sâu lắng mang đầy sự quyến rũ và thu hút; mặt sau hướng về đường Cách mạng tháng Tám, một trong những con đường nhộn nhịp nhất của thành phố Bến Tre. Đến với Bảo tàng Bến Tre quý khách có thể tham quan, học tập, nghiên cứu tìm hiểu các địa điểm trong quần thể này đó là: Di tích quốc gia “Nơi ở và hoạt động của Đại tá Phạm Ngọc Thảo” (được công nhận Di tích lịch sử quốc gia năm 2015), Ngôi nhà là Dinh Tham biện (Pháp) - Dinh Tỉnh trưởng (Mỹ) được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp (1876) mang nét trang nghiêm và cổ kính, nơi đây trưng bày những hình ảnh và hiện vật về lịch sử, truyền thống cách mạng của nhân dân tỉnh nhà trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược; trưng bày hình ảnh, tư liệu về người chiến sĩ tình báo, Đại tá Phạm Ngọc Thảo; trưng bày Di chỉ khảo cổ học Giồng Nổi. Nhà trưng bày thành tựu Kinh tế - Xã hội của tỉnh (2003): trưng bày những hình ảnh, hiện vật trong xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương từ sau ngày 30.4.1975 đến nay - nơi đây còn là nơi trưng bày các chuyên đề đặc sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực với những thành tựu lớn của tỉnh nhà. Nhà dừa (2012): Ngôi nhà 3 gian được cất bằng gỗ dừa theo kiểu nhà nông thôn Nam bộ. Ngôi nhà được thiết kế một cách nhẹ nhàng, khoáng đạt mang tính chất dân tộc đậm đà, phản ánh được tính giản dị và tâm hồn con người Việt Nam. Bên trong ngôi nhà thờ Bác Hồ và AHLLVTND, Đại tá Phạm Ngọc Thảo, trên vách trưng bày các hình ảnh, hiện vật liên quan đến cây dừa Bến Tre trong kháng chiến cũng như trong sinh hoạt văn hóa. Nhà dừa còn tổ chức giao lưu “đờn ca tài tử”, “hát Sắc bùa”,… vào đêm 30 mỗi tháng. Đến đây du khách có thể cảm nhận được sự yên bình, ấm áp đồng thời thưởng thức những làn điệu diễn xướng dân gian Bến Tre được các nghệ nhân, tài tử trình diễn. Khu trưng bày ngoài trời: gồm những hiện vật thuộc thể khối có kích thước lớn như xác máy bay, pháo, vỏ bom…thu gom trong chiến tranh; Xung quanh khuôn viên là các tiểu cảnh đan xen: ruộng lúa, con trâu, hồ sen, cầu dừa,… tạo cảm xúc gần gũi, thân quen với du khách. Là một trong những địa chỉ đỏ về giáo dục truyền thống cách mạng vô cùng ý nghĩa, là điểm du lịch thú vị, hấp dẫn. Mỗi năm, Bảo tàng Bến tre thu hút khoảng 40.000 du khách trong và ngoài tỉnh cũng như du khách quốc tế đến tham quan, tìm hiểu, học tập, giải trí, trải nghiệm, thưởng thức di sản văn hóa và nghệ thuật dân gian Bến Tre. Bảo tàng Bến Tre được công nhận là Di tích Lịch sử quốc gia ngày 28.8.2015 bởi Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch. Nguồn: Du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 6355 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Long Phụng

Đình Long Phụng ở Ấp Long Hòa 2, Xã Long Định, Huyện Bình Đại, Tỉnh Bến Tre. Đình Long Phụng là đình làng thứ 5 của tỉnh Bến Tre được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia, vào ngày 20/6/2018. Ngôi đình này có lịch sử lâu đời, khắc họa rõ nét văn hóa tín ngưỡng và kiến trúc của vùng đất Bình Đại xưa. Đình Long Phụng được khởi công xây dựng lần đầu tiên vào năm 1833, đến cuối năm 1834 thì hoàn thành. Ban đầu, đình chỉ được dựng lên bằng cây lá đơn sơ bên bờ sông Bình Đại. Lúc này, đình không được nhiều người biết đến, chỉ có một vài hộ dân trong vùng lui tới thắp nhang cúng Thành Hoàng để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm Thiệu Trị thứ 5, đình được sắc phong lần đầu tiên với 2 sắc Đại càn Quốc gia Nam Hải và Bổn cảnh Thành hoàng vào ngày 27/11/1845. Đến ngày 26/12/1845, đình được Vua Thiệu Trị sắc phong lần thứ hai cũng gồm 2 sắc như trên. Đợt thứ ba là vào ngày 8/11/1850, Đình Long Phụng nhận thêm 2 sắc phong dưới thời Vua Tự Đức năm thứ 3. Tổng cộng đình có tất cả 6 sắc phong. Theo quan niệm lúc bấy giờ, sắc phong chính là sự công nhận của Vua - Thiên Tử dành cho những đình làng đang thờ các vị thần linh thiêng. Đến cuối năm 1916 đình được xây mới chắc chắn với quy mô lớn hơn đình cũ, hầu hết kiến trúc vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Khuôn viên đình Long Phụng có tổng diện tích 2.580m2. Trong đó, diện tích xây dựng ngôi đình là khoảng 750m2. Đình được tạo nên từ những bức tường bằng gạch chắc chắn, mái lợp ngói âm dương, hệ thống cột, kèo, rui bằng gỗ giáng hương nên màu sắc trải qua hàng thế kỷ với rất đẹp, nền lát gạch tàu. Đình được xây dựng theo lối kiến trúc chùa chiền cổ truyền với các gian võ ca, võ quy nối liền với chính điện. Ngoài ra, ở phía bên trái nối liền gian chính điện còn có khu vực nhà khách và nhà ở của tiên sư. Cấu tạo toàn bộ kiến trúc theo dạng hình chữ Đinh. Bước qua cổng đình, là bức bình phong lớn, giữa sân là bàn thờ Thần nông và hai ngôi miếu nhỏ gọi là miếu Ông Hổ (Sơn quân) và miếu Ngũ Hành. Gian võ quy được xem là nơi quan trọng của đình. Tại đây trang trí bằng các đường nét hoa văn đặc trưng như: ba hương án, cặp quy – hạc, hoành phi, trong đó có 3 bức hoành phi dạng cuốn thư sơn son thếp vàng. Đặc biệt, những cây xà ngang tại gian võ ca đều được chạm khắc thành đầu rồng cực kỳ tinh xảo, phía trên đầu là các câu đối với hình tứ giác chạm lộng tứ linh uy nghi. Gian chính điện của Đình Long Phụng có diện tích rộng nhất. Điện thiết kế theo kiến trúc 3 gian kiểu tứ trụ với vách gạch, nền lát gạch hoa, mái lợp ngói âm dương. Phần mái đình được trang trí với nhiều đồ án sắc sảo, sống động như rồng vờn mây, lưỡng long tranh châu, cá chép hóa rồng, rùa cõng châu ngọc. Bên cạnh kiến trúc độc đáo thì đình Long Phụng còn trưng bày và lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị như long đình, khánh thờ, hương án, liễn áp cột, lỗ bộ, hoành phi. Trong đó, hiện vật có tính lịch sử và văn hóa nhất phải kể đến là khánh thờ thần. Khánh thờ của đình Long Phụng được chạm trổ ba lớp, bên ngoài chạm khắc nhiều hoa văn trong bộ tứ linh, tứ quý. Bên cạnh đó, đình cũng còn lưu giữ hai sắc phong do Vua Tự Đức ban tặng vào năm 1852: sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng và sắc Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị tôn thần. Vì một số phần kiến trúc của đình đã bị sạt lở nên đã được trùng tu, xây dựng lại. Tuy nhiên, nhìn chung thì đình vẫn giữ được vẻ đẹp đậm chất văn hóa truyền thống, từng đường nét đều khắc họa niềm tin tín ngưỡng lâu đời của mảnh đất Bình Đại nói riêng và Bến Tre nói chung. Nguồn: Du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 4509 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tiên Thuỷ

Là một trong những ngôi đình được tạo lập sớm nhất ở Ấp Khánh Hội Đông, xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, Đình Tiên Thủy không chỉ là nơi tôn thờ vị thần của làng mà còn là chứng tích văn hóa nghệ thuật và lịch sử. Dấu tích kiến trúc nghệ thuật có từ những năm đầu thế kỷ 19 của Đình Tiên Thủy đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác nhận đủ chuẩn xếp hạng Di tích cấp Quốc gia. Đình Tiên Thủy nằm bên bờ nhánh nhỏ của sông Hàm Luông. Với cấu trúc theo hình chữ Sơn (từ Hán), Đình Tiên Thủy được xây theo thể thống nhất, liên hoàn trong diện tích trên 1ha, gồm: nhà võ ca, võ quy, chính điện, chỉnh y, bếp và nhà tiệc. Phía trước có bức bình phong và 4 ngôi miếu: Ông Hổ, Ngũ Hành, Thổ Thần, Bà Chúa Xứ và bàn thờ Thần Nông. Đình Tiên Thủy được lập ngay sau khi Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, dừng chân nơi này vào những năm 1778. Đến năm 1852, Đình được vua Tự Đức chuẩn y và ban 7 sắc phong. Tuy nhiên, do trước đây Tiên Thủy và Tiên Long cùng một làng, có hai đình gọi là Đình Ông và Đình Bà nên khoảng 10 năm trở lại đây, Đình Tiên Thủy (Đình Bà) đưa về Đình Tiên Long 3 sắc phong. Hiện tại, Đình còn 4 sắc phong thờ thần Cao Các Quảng Độ tôn thần, Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi, Bổn Cảnh Thành Hoàng và Đại Càn Quốc Gia Nam Hải. Đình Tiên Thủy có kiến trúc của nhà xuyên trính, 3 gian, hai chái, mái ngói âm dương. Vẫn mang đậm kiến trúc cổ, đặc trưng của công trình ở thế kỷ 19, Đình Tiên Thủy được xây dựng ban đầu bằng cây lá đơn sơ, sau đó là gỗ, ngói, sành, sứ. Đình có 42 cột bằng gỗ lim, căm xe với bề hoành từ 90cm đến 1m. Cột, kèo, đòn tay được kết dính với nhau bằng kỹ thuật mộng chốt và đầu kèo đều được chạm hoa văn. Nóc đình chính là ngọn tháp với phong cảnh 4 mặt và trên nóc trang trí hoa văn đắp nổi, cùng 2 đầu rồng ở 2 góc tháp. Cũng như bao đình cổ khác, điêu khắc chạm nổi, chạm lộng, chạm khắc, xà cừ, sơn son thếp vàng được thể hiện sắc sảo ở các hoành phi, câu đối, bao lam, thành vọng. Nhiều loại hoa trái, chim cảnh đậm nét dân gian Việt Nam được thể hiện ở đây như hoa mai, mẫu đơn, hoa lựu, hoa sen, cúc, trúc, bướm, dơi, chuột, cua, ếch, long-lân-quy-phụng... Kiến trúc đặc sắc và công phu nhất của Đình Tiên Thủy là chạm nổi hai lớp hoa văn ở các ô, hộc. Lớp bên trong sử dụng chạm lộng như một lớp lưới hay tổ ong để làm nền cho lớp hoa văn chạm nổi bên ngoài. Đình hiện còn lưu giữ 14 hoành phi, 6 bao lam, 4 khánh thờ, 4 sắc phong, 2 liễn áp cột, 2 hương án và nhiều liễn đối, bài vị... Cho đến nay, Đình Tiên Thủy vẫn là đình quy tụ đông đảo người dân về cúng bái. Đình có cả sân khấu dành cho hát Bội vào lễ Kỳ yên và Lễ Du thần trên sông chính - nét riêng của Đình Tiên Thủy. Ngoài ra, Đình còn có các lễ cúng lệ kỳ hàng năm như lễ Khai sơn, cúng Quan Thánh, Giỗ tổ Hùng Vương, lễ Hạ điền và Thượng điền. Với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, hàng năm có hàng ngàn lượt người tham dự. Đặc biệt là lễ Kỳ yên, người dân xa xứ thường hội tụ về đây cúng bái, giao lưu gắn kết thêm tình làng nghĩa xóm. Nguồn: Du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 4311 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Phú Lễ

Tọa lạc tại ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Đình Phú Lễ được vua Minh Mạng cho phép lập đình vào năm 1826, trên cơ sở ngôi đình bằng gỗ lá được xây dựng trước đó. Ngày 29.01.1852, đình nhận được sắc phong của vua Tự Đức. Giữa không gian yên tĩnh, cổng đình Phú Lễ hiện ra uy nghi và nổi bật. Đình đã gần hai trăm tuổi, qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ nguyên nét cổ kính. Ngôi đình ẩn mình giữa những tán cây cổ thụ, khi mặt trời ló rạng, những tia nắng len lỏi qua từng kẽ lá, chiếu vào tường gạch, thềm đá rêu phong càng tôn thêm nét uy nghiêm, trầm mặc vốn có của đình. Thềm và móng đình được cấu trúc bằng đá xanh, bên trên xây gạch. Đình gồm tất cả 10 gian: 6 gian chính dính liền với mái và 4 gian phụ bố trí theo lối “chữ Đinh” cũng là nhà phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long trước đây. Cột đình bằng gỗ lim, gỗ quí hiếm ở miền Tây Nam bộ, đường kính 40cm, mái lợp ngói vảy cá. Trong Đình gồm 6 bàn hương án đều sơn son thếp vàng với hình tượng long lân qui phụng rất tinh xảo theo mô típ của đình chùa cổ Việt Nam. Ðặc biệt là nghệ thuật chạm khắc nhiều tầng trên gỗ bao quanh các cột ở gian chánh đường cho thấy tay nghề lão luyện của người thợ ngày đó. Tương truyền, khi xây đình, các cụ cao niên trong vùng đã mời các thợ và nghệ nhân từ Huế vào chạm khắc nên những tác phẩm gỗ tuyệt đẹp này. Không chỉ là những hình ảnh các con vật tứ linh mang tính ước lệ của văn hóa cổ Việt Nam mà còn có cả hình ảnh con cá, con cua của vùng biển Ba Tri – những con vật bình dân cũng được đưa vào trong kiến trúc tạo hình. Sự hoành tráng, uy nghi của ngôi đình cho thấy cuộc sống trù phú và bề dày văn hóa của cư dân Phú Lễ nói riêng và vùng Ba Tri nói chung vào đầu thế kỷ trước. Do chiến tranh và thời gian, các công trình kiến trúc và các hiện vật bài trí bên trong (hương án, cuốn thư, hoành phi, bình phong, bao lam, đồ lễ bộ…) đã bị xuống cấp và hư hỏng nhiều. Tuy nhiên, những phần cơ bản về kiến trúc vẫn còn nguyên, không bị bom đạn tàn phá, đặc biệt những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ sơn son, thếp vàng còn lưu giữ được đến hôm nay. Đình Phú Lễ là trung tâm tín ngưỡng của cộng đồng cư dân, là nơi dân làng gửi gắm những mong ước của mình vào vị thần phò trợ cho làng, được nhà nước sắc phong là Thành hoàng Bổn cảnh. Ngoài thần Thành hoàng, các vị Tiền hiền, Hậu hiền có công khai phá, lập làng cũng được nhân dân đưa vào đình thờ phụng. Điểm khác biệt của đình Phú Lễ là vào ngày Tết hoặc Lễ hội cúng đình (Lễ Kỳ Yên) được tổ chức vào 18 và 19 tháng 3 âm lịch hàng năm, ngay trước đình sẽ tổ chức hát bội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân và du khách thập phương. Ngày 9 – 10 tháng 11 Âm lịch đình tổ chức lễ cầu bông, cầu mong mùa màng bội thu. Ngày 7-1-1993, Đình Phú Lễ được Bộ Văn hoá – Thông tin ra quyết định công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Du lịch Bến Tre, đến Phú Lễ bạn còn khám phá làng nghề truyền thống Phú Lễ (gồm đan đát, nấu rượu), trong đó có nghề nấu rượu đế đã tồn tại rất lâu đời. Rượu đế Phú Lễ được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng và biết đến bởi sản phẩm rất thơm ngon, tinh khiết, chất lượng ổn định, không gây độc hại và hợp khẩu vị của người tiêu dùng. Nguồn: Báo du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 6095 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Bình Hoà

Đình Bình Hòa nằm sát tỉnh lộ 26, thuộc ấp Bình Ninh, xã Bình Hòa cũ nay là tỉnh lộ 88, ấp 5A, Thị Trấn Giồng Trôm, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Đình Bình Hòa được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1812. Đình do bà con nhân dân dựng lên từ những vật liệu đơn sơ như cây, lá , tre, nứa để thờ thành hoàng làng. Đến năm 1852, Đình Bình Hòa Bến Tre được vua Tự Đức sắc phong. Đây là nghi lễ rất có ý nghĩa khi các thần linh thờ trong đình nhận được sự công nhận từ nhà vua. Từ đó, đình được bà con nhân dân biết đến nhiều hơn, họ về đây dâng lễ để cầu nguyện những điều bình an, may mắn. Đến năm 1903, ban khánh tiết đã đứng ra để tổ chức, vận động người dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng lại Đình Bình Hòa Bến Tre với quy mô rộng lớn hơn. Quá trình thi công mất 10 năm, từ 1903 đến 1913 thì hoàn thành. Vật liệu chủ yếu được sử dụng là gỗ tứ thiết, kết cấu gắn bằng mộng và chốt khớp, hoàn toàn không dùng đinh. Đây là kiểu xây dựng đình chùa rất quen thuộc dưới thời nhà Nguyễn, dù thô sơ nhưng vẫn vô cùng chắc chắn. Ngày 25/12/1959 âm lịch, một trung đoàn công an Ngô Quyền do tên Lê Xuân Khánh chỉ huy từ Bến Tre xuống đây đóng quân. Chúng lấy đình Bình Hòa làm nơi giam cầm, tra tấn các chiến sĩ cách mạng và đồng bào ta. Quân Ngụy đã sử dụng rất nhiều hình thức tra tấn dã man, tàn ác. Theo một số ghi chép, tổng số đồng bào bị chúng bắt đến đây và tra tấn, thiệt mạng lên hơn 400 người. Ngôi đình trăm năm tuổi đã chứng kiến máu của biết bao đồng bào đổ xuống, đồng thời là chứng nhân lịch sử cho tội ác của kẻ thù. Đến năm 2012, đình Bình Hòa được trùng tu bởi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre kết hợp cùng Ủy ban nhân dân huyện Giồng Trôm. Quá trình tôn tạo di tích kéo dài trong 1 năm, vẫn giữ nguyên những nét đặc trưng của đình nhưng mở rộng quy mô và xây thêm những công trình phụ trợ để phục vụ khách đến tham quan và du lịch. Khi hoàn thiện, tổng diện tích đình Bình Hòa là 9.000m2 với các hạng mục chính bao gồm: nhà võ ca, thiêu hương, chính điện, tiền sảnh, hành lang, hậu đường, miếu Quan Thánh. Hiện nay, đình Bình Hòa vẫn đang lưu giữ hơn 100 tác phẩm điêu khắc gỗ tinh xảo bao gồm các bức hoành phi, liễn đối, bao lam, phù điêu, hương án. Đình Bình Hòa đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật Quốc gia ngày 7/1/1993. Nguồn: Tổng hợp báo du lịch Bến Tre

Vĩnh Long 6057 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tân Thạch

Đình Tân Thạch ở Ấp 9, Xã Tân Thạch, Huyện Châu Thành, Tỉnh Bến Tre. Đình Tân Thạch được xây dựng vào năm 1841, lúc bấy giờ có tên gọi là đình Thạch Hồ. Đình được xây để thờ Thành Hoàng làng. Cấu trúc đình làng theo hình chữ Tam (三) với ba gian chính là Võ ca, Võ quy và Chánh điện liền kề nhau. Đình Tân Thạch có diện tích khuôn viên khoảng hơn 7.600m2. Trong đó, diện tích mặt bằng của đình là 1.250m2. Đình được xây dựng với lối kiến trúc đậm chất truyền thống, mái đình lợp ngói âm dương, trang trí bằng những hình ảnh quen thuộc như lưỡng long tranh châu, cá chép hóa rồng và bát tiên. Cổng tam quan của Đình Tân Thạch được xây dựng bằng gạch và xi măng, phần mái lợp ngói, trên mái là hình tượng hai con rồng bằng sứ trắng. Cổng thiết kế thành ba cửa với cửa chính ở giữa. Theo quan niệm dân gian thì cổng chính dành cho sư sãi và vua chúa, quan lại đến đình dâng hương. Còn cửa phụ dành cho khách thập phương, bên trái là nam, bên phải là nữ. Hai bên mái cổng đình trang trí bằng con lân làm từ gốm men màu xanh đang trong tư thế ngồi chầu. Bên cạnh là hai câu đối đắp nổi, thể hiện mong muốn quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa. Xung quanh tường rào bằng đá xanh, trang trí thêm chấn song hình con tiện. Trước sân Đình Tân Thạch còn có bức bình phong lớn hình Thần Nông từ vật liệu đá, cao khoảng 3m, chạm nổi hình rồng đang vươn mình bay lên. Bên dưới là con hổ ẩn hiện trong những dải hoa văn hình núi, mây, cây cối. Hai bên bình phong là hai câu đối bằng tiếng Hán ghi. “Hổ cư sơn lâm phù xã tắc”. “Long du nguyệt điện tráng sơn hà”. Bên trái bình phong là miếu thờ nhỏ của Sơn quân, thờ Thần Hổ linh thiêng. Bên phải là miếu thờ thần Thổ địa và thần Hà bá, theo quan niệm dân gian là thần cai quản đất đai và cai quản sông nước. Ngoài ra, trong miếu còn thờ 3 hòn đá theo tín ngưỡng thờ Neak Tà của người Khmer. Gian Võ ca: Đây là gian gồm ba căn hai chái, nơi tổ chức các hoạt động xây chầu đại bội vào những dịp lễ lớn như cúng Kỳ Yên. Gian Võ quy: Gian này gồm năm căn hai chái, xây theo lối kiến trúc nhà xuyên trính với các thanh xà ngang nối xuyên qua từng cột. Gian Võ quy đặt một bàn hương án thờ Phật, đồng thời cũng là nơi hành văn lễ tế thần. Gian Chính điện: Phía trước Chính điện đặt một bàn thờ, bên phải là hai bài vị ghi: “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thần” và “Thủy Đức nương nương”. Còn bên trái bàn thờ là hai bài vị “Chúa xứ Thánh Mẫu nương nương” và “Thái giám Bạch mã mộc trụ ngũ phương tôn thần”. Chính điện được xây theo kiểu nhà ba căn, hai chái thoáng mát, rộng rãi. Gian giữa thờ Quốc tổ Hùng Vương, kế đến là thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gian bên đặt khánh thờ thần Thành hoàng với bức tượng sơn son thếp vàng, tả ban và hữu ban đều đặt bàn thờ tiền hiền, hậu hiền. Nhà tiền vãng: Nối liền với chính điện của Đình Tân Thạch là ngôi nhà trù (hay còn gọi là nhà bếp). Ngay bên cạnh nhà trù là nhà tiền vãng - Nơi thờ các vị tiền hiền khai khẩn đất đai, hậu hiền có công với dân với nước. Đình Tân Thạch còn lưu giữ những hiện vật có giá trị lâu đời như: 6 đạo sắc phong thần được triều đình nhà Nguyễn ban cho Đình Tân Thạch. Trong đó có 4 đạo sắc phong dưới thời Vua Thiệu Trị (1845), 2 đạo sắc phong dưới thời Vua Tự Đức (1850). 4 bộ lư mắt tre tinh xảo. 7 lư trầm bằng đồng thau với màu sắc đẹp mắt. 13 bức hoành phi khổng lồ được chạm nổi, sơn son thếp vàng rực rỡ. 13 bao lam thành vọng bằng gỗ quý, đặt trên cột chính ở gian Võ ca, Võ quy và Chính điện. Các hiện vật có niên đại khác nhau, đôi chỗ hư hại trong quá trình trùng tu. Tuy nhiên nhìn chung, tất cả đều được chạm trổ công phu, thể hiện tài hoa và bàn tay khéo léo của các thế hệ nghệ nhân thời bấy giờ. Các bức hoành phi, câu đối với nội dung ca ngợi công đức của Thành hoàng làng, thể hiện sự biết ơn và tấm lòng ngưỡng vọng của người dân đối với những công ơn của các vị thần. Ngày 28/12/2001, Bộ Văn hóa-Thông tin đã công nhận Đình Tân Thạch là Di tích lịch sử văn hoá, Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Báo du lịch tỉnh Bến Tre

Vĩnh Long 4025 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Quân khu ủy Sài Gòn – Gia Định

Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tọa lạc tại xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre còn có mật danh là T4, Y4, là cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến chống Mỹ ở khu vực đô thị Sài Gòn - Gia Định từ tháng 7/1969 đến tháng 10/1970. Cách đây 50 năm, vào tháng 7-1969, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư, hai đồng chí Trần Bạch Đằng và Mai Chí Thọ làm Phó bí thư đã lãnh đạo, chia thành nhiều bộ phận nhỏ, bằng nhiều hình thức bí mật di chuyển đến căn cứ xã Tân Phú Tây. Tuy thời gian đóng tại đây không dài nhưng Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã để lại những dấu mốc lịch sử đáng nhớ, đó là nơi làm việc của các đồng chí lãnh đạo Đảng. Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định qua những tư liệu lịch sử hiện vẫn còn được tỉnh bảo tồn, giới thiệu tại di tích lịch sử cách mạng cấp quốc gia cùng tên, tọa lạc tại xã Tân Phú Tây, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. Đây là một trong những địa điểm di tích thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh tham quan hàng năm. Căn cứ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định được chuyển về đóng tại xã Tân Phú Tây và Thành An vào thời điểm như đã nêu. Đây là vùng mới giải phóng, nhân dân kiên cường, có trình độ giác ngộ chính trị cao, địa hình lại rất hiểm trở, nhiều kênh rạch chia cắt, có nhiều vườn dừa liên tiếp che chắn, địch không thể đổ quân bằng xe cơ giới, thiết giáp, kể cả việc dùng trực thăng đổ quân cũng bị nhiều hạn chế. Chỉ bằng những vật liệu thô sơ, chủ yếu là sử dụng những thứ có sẵn tại chỗ, các du kích địa phương đã xây dựng 16 hầm nổi và 14 hầm bí mật (phân bố ở hai xã liên hoàn: Tân Phú Tây và Thành An), tất cả được bố trí chặt chẽ để có thể chi viện cho nhau lúc cần thiết. Các hầm nổi là nơi ở, làm việc, hội họp của các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, ban y tế, bộ phận điện đài cơ yếu; ngoài ra, còn có một hầm được đặt tên là “nhà hạnh phúc”, là nơi ở đêm tân hôn của các chiến sĩ Y4. Đến tháng 10-1970, địch đã phát hiện lãnh đạo Khu ủy hoạt động tại xã Tân Phú Tây, chúng đã nhiều lần đổ quân đánh phá nơi đây và các xã lân cận. Trước tình hình đó, đồng chí Võ Văn Kiệt đã họp lãnh đạo Khu ủy, quyết định rút khỏi vùng căn cứ. Thời gian đóng tại khu căn cứ, lãnh đạo Khu ủy Sài Gòn - Gia Định đã nhận được sự cưu mang đầy nghĩa tình của quân và dân trong toàn huyện. Sau chiến tranh, vùng căn cứ gần như bị phá hủy hoàn toàn. Để nhắc nhớ sự kiện ấy, tháng 11-1997, Đảng bộ và nhân dân tỉnh đã phục chế lại hai hầm trú ẩn: hầm số 1 là nơi hội họp điện đài cơ yếu và hầm số 2 là nơi ở và làm việc của đồng chí Võ Văn Kiệt và sau đó mở rộng khoảng 2ha xây dựng thêm một số hạng mục. Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23-12-1995. Nguồn: Tạp chí bộ lao động thương binh xã hội

Vĩnh Long 5342 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa