Di tích lịch sử

Việt Nam

Nhị Phủ hội quán (Chùa Ông Bổn)

Miếu Nhị Phủ, Nhị Phủ hội quán hay còn được gọi là chùa ông Bổn, tọa lạc tại 264 đường Hải Thượng Lãn Ông, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Có tên là Nhị Phủ vì miếu được thành lập do sự đóng góp của người Hoa gốc ở hai phủ Tuyền Châu và Chương Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Về sau nhóm Tuyền Châu lập hội quán Ôn Lăng, nhóm Chương Châu lập hội quán Chương Châu (nay là Hà Chương). Không rõ miếu được xây dựng năm nào. Hiện nay trong miếu còn lưu giữ một chuông cổ. Trên chuông chỉ đúc hàng chữ "Nhị phủ Đại Bá Công Ất Dậu trong thu cát đán..." nên khó xác định niên đại. Trong "Cổ Gia Định phong cảnh vịnh", bài phú mô tả phong cảnh Gia Định từ năm 1770 đến năm 1815. Trên một câu đối treo ở chính điện hội quán Hà Chương (được thành lập sau miếu Nhị Phủ) có ghi năm trùng tu là Gia Khánh Kỷ Tỵ tức năm 1809. Như vậy hội quán này được xây dựng muộn nhất là vào cuối thế kỷ XVIII. Từ những dữ liệu trên, có thể nói "Ất Dậu"chạm trên chuông là năm 1765, cũng là năm thành lập miếu. Từ khi thành lập đến nay, miếu đã qua ba lần trùng tu lớn vào những năm 1875, 1901 và 1990. Dù vậy, miếu vẫn giữ được nét cổ kính qua phong cách kiến trúc và trang trí truyền thống của người Hoa - Phúc Kiến. Khuôn viên miếu rộng khoảng hai ngàn năm trăm mét vuông. Phần sân chiếm gần phân nửa diện tích. Không gian còn lại bao gồm các điện thờ, trụ sở hội quán và sân thiên tỉnh. Miếu có dạng nhà khung gỗ, mái ngói, tường gạch. Vách mặt tiền ghép bằng các phiến đá. Bộ khung gỗ được sơn màu đỏ, trang trí đẹp mắt bằng các bông sen chạm ngược ở đầu các thanh chống xà gồ dưới mái hiên, các tượng kỳ lân bằng gỗ đầu xà cột hay những diềm gỗ chạm lộng trên thanh ngang...Mái miếu lợp ngói ống, diềm mái là hàng ngói thanh lưu ly. Hình thức vì kèo "chồng rường - giá chiêng" khiến mái miếu hơi cong cộng với thiết kế tạo hình hai tầng mái và các đầu đỉnh mái, đầu đao uốn cong tạo cho ngôi miếu có dáng một chiếc thuyền rồng... Trên mái trang trí tượng cá hóa long, mai, lan, cúc, trúc, rồng, phượng... bằng gốm sứ nhiều màu sắc. Ơở gờ đỉnh mái có tượng lưỡng long tranh châu. Thân rồng không duỗi dài như thường thấy mà gần như dựng thẳng, đuôi xòe cao. Bên trong miếu bài trí đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Trên mỗi cột gỗ cao sơn màu đỏ, được kê bằng các chân đá chạm trổ mỹ thuật, có treo một hoặc hai câu đối. Nhiều câu đối cao hơn 3 mét, được làm cong theo chiều cong của cột. Hoành phi cũng được trang trí nhiều nơi. Có tất cả 14 câu đối và 30 hoành phi, phần lớn được làm từ năm 1864 đến năm 1901. Các hoành phi, câu đối được chạm viền chung quanh, bên trong chạm nổi các chữ Hán trên nền hoa văn rồng mây, sóng nước... ngoài ý nghĩa ca ngợi thần thánh còn có giá trị nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm gỗ. Bàn thờ ông Bổn tức Phúc Đức chính thần, vị thần bảo hộ đất đai theo tín ngưỡng của người Hoa đặt giữa chính điện. Hai bên thờ Quảng Trạch tôn vương và Thái Tuế gia gia. Dọc hai bên thiên tỉnh trước chính điện là hai gian thờ Quan Thánh đế quân và Chúa Sinh nương nương. Hậu điện thờ Ngọc Hoàng đại đế, Thích ca Phật tổ và Quan Âm Bồ tát. Các vị thần, thánh được thể hiện bằng tượng gỗ hay thạch cao đặt trang trọng trong các khám thờ. Nổi bật nhất là khám thờ ông Bổn được làm năm 1894. Khám thờ bằng gỗ, sơn nhũ vàng, chạm trổ các đề tài lưỡng long tranh châu, ngô đồng - phượng, lân hàm châu... xen kẻ hoa văn đồng tiền, chữ thọ, các con vật miền sông nước như tôm, cua, cá... là một tác phẩm của nghệ thuật chạm khắc gỗ, một hiện vật quý của miếu. Ngoài ra còn có những hiện vật giá trị khác như chuông cổ bằng hợp kim đúc năm Ất Dậu (1765), chuông bằng gang làm năm 1875, tượng kỳ lân bằng đá, các bao lam, bình phông, hoành phi, câu đối... có niên đại cuối thế kỷ 19. Miếu Nhị Phủ được xem là một trong những đền miếu xưa nhất của người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh. Là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật chạm đá, chạm gỗ tinh xảo, miếu Nhị Phủ không chỉ thể hiện sự giao lưu văn hóa Hoa - Việt mà còn đánh dấu sự định cư và phát triển của người Hoa Phúc Kiến, gắn liền với sự phát triển của Sài Gòn xưa. Ngày 31/8/1998 miếu Nhị Phủ đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định-Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2226 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Nhà thờ tổ thợ bạc (Lệ Châu hội quán)

Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh, tọa lạc trên một khu đất rộng 805m2, tại số 586 đường Trần Hưng Đạo B, phường 14, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một ngôi nhà đã tồn tại hơn 100 năm, là nhà thờ tổ nghề thợ bạc được xây dựng sớm nhất tại Sài Gòn và cả vùng Nam Bộ. Tác giả Vương Hồng Sển đã viết: "Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa tổ" thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm". Những năm cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một khu công nghiệp khá quan trọng. Thợ thủ công Sài Gòn có tay nghề cao và được tổ chức thành các "ty thợ", "phường thợ". Riêng nghề thợ bạc (nghề kim hoàn ngày nay) rất phát triển. Làm cho nhà nước thì có các ty: ty thợ bạc Nội, ty thợ bạc Tả Trung, ty thợ bạc Hữu Trung... Còn tư nhân thì tập trung lại thành các lò thợ bạc. Xung quanh vùng Chợ Lớn đã có tới hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Làm ăn phát đạt - Nhớ ơn tổ nghiệp. Một số chủ lò thợ bạc có uy tín ở vùng Chợ Lớn đã đứng ra vận động quyên góp từ các lò thợ bạc trong vùng và khắp các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ, kẻ ít, người nhiều, họ đã chung lưng góp sức mua được một vuông đất ở đường Thủy Binh (Rue des Marins tức đường Trần Hưng Đạo B ngày nay). Nhà thờ tổ được xây cất bắt đầu từ năm 1892 đến năm 1896 thì hoàn thành. Nhà thờ tổ đã trải qua nhiều đợt trùng tu lớn vào các năm 1920, 1934, 1946. Lần trùng tu lớn cuối cùng là tháng 8/1968 đã cất lại toàn bộ nghĩa từ và sửa chữa lớn ở chánh điện do bị bắn phá hư hại. Chánh điện được xây theo kết cấu ba gian dọc, có hai hàng cột chạy dài từ ngoài vào trong, tường gạch tô, mái lợp ngói âm dương. Bài trí ở chánh điện đơn giản, không có một pho tượng nào. Mặt trường chính của chánh điện đặt ba khám thờ được trang trí bằng những bao lam chạm trổ rồng, phụng, hoa, điểu... sắc nét công phu. Chính giữa là khám thờ lớn ở trong đặt các đồ thờ tự và bài vị với hai chữ "Tổ Sư" được viết theo lối đại tự đẹp, chân phương và được sơn son thếp vàng. Hai bên là hai khám thờ nhỏ, khám thờ bên phải đề hai chữ "Tiền Hiền", khám thờ bên trái đề hai chữ "Hậu Hiền". Từ ngoài vào trong dọc theo các hàng cột có 6 cặp câu đối và 9 bức hoành phi với nội dung tập trung vào chủ đề nhớ ơn tổ nghiệp, ca ngợi sự phát triển thịnh đạt của nghề thợ bạc. Tất cả các hoành phi, câu đối, bao lam... đều được sơn son thếp vàng với chất lượng giấy qui có độ tuổi vàng cao nên đều láng bóng và rõ nét, dù tất cả đều có niên đại khá lâu. Trong nhà thờ tổ còn tồn giữ được một số hiện vật khá độc đáo: Một cái trống lớn có chiều cao 1,10m, đường kính 0,60m, tang trống không phải bằng các mảnh gỗ ghép mà lại là một cây gỗ tròn lớn khoét rỗng. Đi đôi với trống là một quả chuông cao 1m, đường kính 0,50m, trên chuông để niên đại năm Ất Mùi (1895) do thợ Hà Nội chế tác và ghi rõ họ tên 14 người trong nghề thợ bạc phụng cúng để tỏ lòng thành kính tổ sư. Đặc biệt là 4 tấm bia đá đặt đối nhau ở hai bức vách chánh điện. Có tấm có niên đại 1895, có tấm để năm 1916, 1920. Trên các tấm bia khắc tên họ, tên hiệu, địa phương, số tiền đóng góp để xây dựng nhà thờ tổ. Qua đó ta thấy có mặt đệ tử nghề thợ bạc khắp Nam kỳ lục tỉnh: Tây Cống, Đề Ngạn, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ... người Hoa, người Việt. Bên cạnh những tên hiệu chữ Hán Nôm như: Thịnh Đức, Kim Phước, Đức Phát... còn có những tên hiệu rất Nam Bộ như: Năm Sương hiệu, Bảy Trừ hiệu... Theo truyền thuyết nhà thờ tổ sư nghề thợ bạc này, được dựng lên để thờ một vị tổ sư họ Trần (không rõ tên), quê từ miền ngoài vào, nguyên là thợ bạc trong cung nội, học nghề thợ bạc từ hai vị cao tổ của nghề kim hoàn Việt Nam là hai cha con: "Đệ nhất tổ sư"Cao Đình Độ (1743 - 1810, hiệu "Đệ nhất tổ sư" do vua Gia Long phong năm 1810) và "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương (1773 - 1821, hiệu "Đệ nhị tổ sư" do vua Minh Mạng phong năm 1821). Lễ giỗ tổ kim hoàn tại Lệ Châu hội quán được tổ chức vào ngày 7 tháng Hai (âm lịch), là ngày giỗ của vị "Đệ nhị tổ sư" Cao Đình Hương. Ngày cúng tổ hàng năm ở đây qui tụ rất đông các đệ tử của nghề thợ bạc từ khắp các vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Lễ giỗ được tổ chức trong ba ngày từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Hai (âm lịch). Hơn một thế kỷ trôi qua, ngôi nhà thờ tổ vẫn được Ban trị sự và các đệ tử của nghề thợ bạc bảo quản nguyên vẹn. Ngôi nhà không chỉ là nơi thờ cúng bình thường nói lên truyền thống "tôn sư trọng đạo", "uống nước nhớ nguồn" của những người hành nghề kim hoàn mà còn mang đậm những nét văn hóa đặc sắc về lịch sử đấu tranh cũng như quá trình phát triển của vùng Sài Gòn và Nam Bộ xưa. Vì lý do đó "Lệ Châu hội quán" đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật theo quyết định số 1811/1998/Quyết Định - Bộ Văn Hóa Thông Tin ngày 31/8/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2040 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Bà Hải Nam hay Hội quán Quỳnh Phủ

Chùa Bà Hải Nam hay Hội quán Quỳnh Phủ là tên gọi hội quán của người Hoa Hải Nam sinh sống ở khu vực Chợ Lớn, Quận 5. Theo nội dung ghi trên bia đá thì hội quán đã được xây dựng vào năm 1824 tại vùng đất “sơn thanh thủy tú” nơi “thuyền xe tấp nập, hàng hóa lưu thông”. Qua sáu lần trùng tu, hội quán mới có được qui mô như ngày nay. Hội quán được xây dựng theo kiểu nhà “tứ hợp diện”với bốn dãy nhà vuông góc nhau và hướng vào sân thiên tỉnh ở chính giữa. Dãy nhà tiền điện được thiết kế thành hai mặt, một mặt hướng ra sân hội quán và một mặt hướng vào thiên tỉnh. Tiếp sau tiền điện là trung điện và chính điện. Trung điện là nơi làm việc và tiếp khách của Ban Quản trị. Các bàn thờ tập trung ở chính điện. Ngoài án thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu còn có các án thờ Văn Xương Đế Quân, Phúc Đức Chính Thần, Tài Bạch Tinh Quân, Hoa Quang, Ngũ Thổ Long Thần và Tiền Hậu Địa Chủ Tài Thần. Đặc biệt, có các vị thần chỉ riêng thờ ở hội quán Quỳnh Phủ là Thủy Vĩ Nương Nương và Ý Mỹ Nương Nương (hai vị nữ thần bảo hộ người đi biển) và 108 thương nhân Hải Nam, sau khi gặp nạn trên biển đã rất hiển linh, được vua Tự Đức ban sắc phong vào năm 1851 và vua Duy Tân ban sắc phong vào năm 1922. Nét nổi bật ở hội quán Quỳnh Phủ là nghệ thuật đúc đồng, thể hiện qua bộ lư hương được đúc vào năm Quang Tự thứ 19 (1893) và một bộ ngũ sự đúc vào năm Quang Tự thứ 33 (1907). Bộ lư hương gồm một lư hương cao 0,7m, đường kính miệng lư rộng 0,9m và hai tượng hươu cao 1m, miệng ngậm giá nến, hoa mai trên thân hươu và đầu lân trên tay quai được tạo dáng sinh động, sắc sảo. Bộ ngũ sự gồm một đỉnh trầm chân vạc đúc nổi hình “Bát tiên thượng kỳ thú”(tám vị tiên cưỡi trên tám con thú quí), lưỡng long tranh châu (hai con rồng tranh viên ngọc) và hai độc bình, hai chân nến cũng được đúc nổi lưỡng long tranh châu trên nền mây, lửa. Kỹ thuật chạm khắc gỗ ở hội quán cũng đạt giá trị nghệ thuật cao, thể hiện trên các bao lam khám thờ, bao lam cửa, hương án, liễn đối, hoành phi… Bằng kỹ thuật chạm bong, chạm nổi, chạm lộng hoặc kết hợp chạm lộng với chạm nổi, các nghệ nhân đã tạo ra những phù điêu án thờ với hàng chục nhân vật hay những bao lam chạm cả hai mặt công phu, những khám thờ nhiều lớp bao lam…với những mô-tip Thập bát La hán, long lân qui phụng, trích đoạn truyện Phong Thần hay những con vật quen thuộc với đời thường như bầy cá quẫy đuôi, con cua đang kẹp râu con tôm trong bãi cỏ, dây bầu trĩu quả… Những tấm liễn gỗ cao hơn 3 mét, rộng hơn 4 tấc được uốn cong theo thân cột cũng là những tác phẩm nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật chạm chìm, chạm nổi. Đáng chú ý là một bộ gồm sáu tấm tranh sơn ta được làm vào năm 1963, tóm tắt truyện thơ Lục Vân Tiên của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Cạnh mỗi tranh vẽ là sáu câu thơ thể hiện nội dung bức tranh. Bộ tranh này cùng với bức bình phong bằng đá vân đen do vua Tự Đức ban tặng và sắc phong của vua Duy Tân thể hiện sự giao lưu, hội nhập giữa cộng đồng Hải Nam và cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Quỳnh Phủ Hội Quán – Miếu Bà Hải Nam thành phố Hồ Chí Minh đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng chứng nhận “Di tích lịch sử – văn hoá” cấp quốc gia bằng Quyết định số 52/2001/Quyết Định/Bộ Văn Hóa Thông Tin cấp ngày 28/12/2001. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 1933 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

CƠ SỞ BAN TUYÊN HUẤN XỨ ỦY NAM BỘ

Sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, Xứ ủy Nam Bộ đã sử dụng căn nhà số 51/10/14 đường Cao Thắng để làm cơ sở của Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ và một số đơn vị Khu Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Căn nhà có nền gạch, mái lợp ngói- nhà chính rộng 3,6m, dài 15m và nhà bếp rộng 3,6m, dài 6m. Tại đây, Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ đặt máy thu thanh và giao cho đồng chí Đỗ Văn Ba (tức Đỗ Văn Hạng), cán bộ Xứ ủy phụ trách cơ sở, thu tin từ Đài Phát thanh Hà Nội và biên tập thành tài liệu, in ấn, phát hành cho các cơ sở của Xứ ủy nắm tin tức và thực hiện chỉ thị của Trung ương đối với Nam Bộ. Ngoài ra, Ban Tuyên huấn Xứ ủy đã tổ chức nhiều cuộc họp quan trọng có các đồng chí cán bộ lãnh đạo cao cấp của thành phố tham dự như đồng chí Trần Bạch Đằng, Phạm Dân, Tân Đức, Đỗ Văn Ba… cho đến khi Ban Tuyên huấn Xứ ủy chuyển về Chiến khu D năm 1957. Từ năm 1957 đến năm 1961, cơ sở Ban Cán sự thị xã Mỹ Tho và Ban Chấp hành phụ nữ giải phóng thị xã Mỹ Tho tiếp tục sử dụng ngôi nhà này để làm điểm tạm trú đồng thời là nơi móc nối liên lạc, hội họp chỉ đạo phong trào đấu tranh của tỉnh Mỹ Tho. Năm 1964, bà Trần Thị Ngọc Sương đã vận động được gia đình ông Tư Bôn ở nhà sát bên để mở rộng cơ sở cho Ban Trí vận Khu ủy sử dụng: nơi đây Anh hùng Lực lượng vũ trang Lê Thị Riêng (Cô Chín), Trưởng Ban Phụ vận Khu ủy cùng các đồng chí Nguyễn Thị Ngoan (Bí thư Ban Phụ vận nội thành), Nguyễn Thị Chơn, Trần Thị Lan, Ngô Bá Thành… đã từng sống và làm việc. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Thị Riêng, cơ sở Ban Trí vận Khu ủy đã viết, in và phát hành một số tờ báo như: “Phụ nữ”, “Sài Gòn vùng lên”, “Trung lập” và tổ chức đưa một số phụ nữ vào hoạt động trong các phong trào: “Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ”, “Phụ nữ đòi quyền sống”, “Đòi cải thiện chế độ lao tù”…Đặc biệt, trong Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, lực lượng Vũ trang Ban Phụ vận cũng đã sử dụng nơi đây để cất dấu vũ khí chuẩn bị cho chiến dịch. Đồng chí Đoàn Lê Phong, Đỗ Ngọc Trinh (Bảy Hà), cán bộ Thành Đoàn sử dụng làm điểm tập kết lực lượng đi phá kềm ở Chợ Bàn Cờ, tổ chức may cờ đi treo và viết truyền đơn rải ở chợ kêu gọi đồng bào đấu tranh chống địch. Năm 1969, tại ngôi nhà này bà Trần Thị Ngọc Sương đã lưu trữ nhiều báo chí, tài liệu để chuyển đến cho phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Paris để nắm tin tức đấu tranh tại Hội nghị. Ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ (30 tháng 4 năm 1975), Đoàn cán bộ tiếp quản thành phố của Thành ủy do đồng chí Phạm Khải (Ba Ka) dẫn đầu xuất phát từ ngôi nhà này đi tiếp quản Bưu điện và Tòa Đô chính Sài Gòn. Với những giá trị lịch sử đó , Cơ sở Ban Tuyên huấn xứ ủy Nam Bộ được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa /Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1998. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh

TP Hồ Chí Minh 1996 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6 trong chiến dịch Mậu Thân 1968

Sở chỉ huy Tiền phương - Phân khu 6 (Đặc khu Sài Gòn - Gia Định) quyết định dùng tiệm phở Bình làm trụ sở tập kết các chiến sĩ, cán bộ để truyền đạt mệnh lệnh trong cuộc Tổng tiến công và Nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Ông Nguyễn Văn Tri, người được phân công phụ trách Sở chỉ huy Tiền phương đã báo cáo tình hình, động viên, bố trí công việc cho anh chị em tại đây, trao đổi với các cụm, rà soát lại các hầm ém vũ khí và các hợp đồng nhận vũ khí. Di tích là tiệm phở Bình, số 7 đường Yên Đỗ (nay là đường Lý Chính Thắng), phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Đó là căn nhà phố: 1 trệt, 3 lầu và 1 sân thượng. Mặt bằng tầng trệt có diện tích: 4m x 19m nở hậu, giữa có cầu thang bằng đá rửa. Phần trệt dùng làm tiệm phở, theo thiết kế bếp nấu chiếm nửa hành lang mặt tiền. Bên trong bố trí bàn ăn thực khách, chừa lối đi ở giữa. Cách ly nhà bếp, nhà vệ sinh, hồ nước với phòng thực khách có thang lầu dẫn lên tầng 1,2,3. Mỗi tầng được chia làm 2 phòng: phòng phía trước (có diện tích 3m x 3,5m) và phòng phía sau (có diện tích 3m x 4m). Một thang sắt bắc lên sân thượng. Mỗi lầu đều có hàng ba phía trước có kích thước 1,2m x 4m che chắn bên ngoài bằng tấm sáo trúc. Tiệm phở nằm trong trung tâm dân cư, rộng thoáng, khách ăn tương đối đông nên đơn vị biệt động dùng làm cơ sở liên lạc, tiếp nhận tài liệu. Ba chiến sĩ trong đội biệt động cũng được bố trí trong vai người giúp việc tại tiệm phở. Từ năm 1967, đã có nhiều cán bộ, chiến sĩ đến trú tại tiệm phở Bình công tác hoặc hội họp vài ngày. Khoảng một tháng trước Tết Mậu Thân, ông Hai Trí đến tiệm phở chỉ thị cho ông Ngô Toại gấp rút dự trữ lương thực cho khoảng 100 người dùng trong 1 tháng. Chấp hành mệnh lệnh, ông Ngô Toại tích trữ một số lương thực, thực phẩm (lương khô, đồ hộp, gà, vịt sống ...) Đêm ba mươi Tết Mậu Thân (năm 1968), chỉ huy các đơn vị biệt động thuộc Phân khu 6 đã tập kết tại nhà số 7 Đường Yên Đỗ chuẩn bị nhận nhiệm vụ: Đồng chí Tư Chu (Nguyễn Đức Hùng) được cử giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Phân khu 6; Hai Trí (Nguyễn Văn Trí) - Chính trị viên cụm J9 (A30, đơn vị bảo đảm chiến đấu); Ba Đen (Ngô Thành Vân) - Đội trưởng A30, Đội trưởng đội biệt động 11 trong đợt 1 chiến dịch (đơn vị đánh tòa Đại sứ quán Mỹ); Ba Phong (Đỗ Tấn Phong) - Chỉ huy trưởng Cụm Biệt động 679 (trong đợt 1 chiến dịch);… cùng các cán bộ, chiến sĩ làm nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, thông tin - cơ yếu và quân y. Mùng một Tết Mậu Thân (ngày 30 tháng 01 năm 1968), đồng chí Ba Thắng (Võ Văn Thành) - Chính ủy Phân khu 6 đến Sở Chỉ huy để chỉ đạo các đơn vị. Đêm mùng một Tết, trên tầng ba ngôi nhà, cán bộ, chiến sĩ, cơ sở, Ban Chỉ huy các cụm, các đội biệt động, các đơn vị phục vụ đã tập hợp đông đủ, chờ mệnh lệnh tiến công. Lúc 23 giờ 30 phút, thay mặt Bộ Chỉ huy Phân khu 6, đồng chí Ba Thắng đã đọc lời hiệu triệu của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, phổ biến giờ và phát lệnh cho các cụm biệt động làm nhiệm vụ xung kích, tiến công các mục tiêu đầu não của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai tại Sài Gòn. Sáng mùng hai Tết Mậu Thân, nhận thấy có dấu hiệu cơ sở đã bị lộ, đồng chí Ba Thắng ra lệnh phân tán lực lượng tại đây, riêng các đồng chí hoạt động hợp pháp tiếp tục ở lại. Sáng mùng ba Tết Mậu Thân, khi các đồng chí chỉ huy đã rời khỏi, quân đội Sài Gòn bao vây tiệm Phở Bình, bắt hai vợ chồng đồng chí Ngô Toại, con gái, con rể và 13 cán bộ, chiến sĩ liên lạc còn ở lại theo yêu cầu nhiệm vụ. Đồng chí Ngô Toại bị địch tra tấn hết sức dã man trong 20 ngày vẫn không khai nhận điều gì. Đồng chí bị đày ra Côn Đảo và giữ lòng trung kiên với cách mạng cho đến lúc được trao trả tù binh sau Hiệp định Pa-ri 1973. Di tích cơ sở bí mật này của lực lượng Biệt động Thành là nơi phát lệnh tổng tiến công cho các đơn vị biệt động và lực lượng nổi dậy nội thành, ghi lại dấu mốc lịch sử quan trọng của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 tại Sài Gòn – Gia Định. Di tích còn là sự thể hiện tấm lòng yêu nước của nhân dân nội thành và tinh thần dũng cảm, bất khuất của các cán bộ, chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là của lực lượng Biệt động Thành trong xây dựng lực lượng và chiến đấu. Di tích đã được Bộ Văn hóa công nhận là di tích lịch sử qua quyết định số 1288 - Văn Hóa /Quyết Định ngày 16/11/1988. Nguồn Trang thông tin điện tử quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2280 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

DI TÍCH LỊCH SỬ NƠI ĐỒNG CHÍ NGUYỄN TẤT THÀNH ĐÃ Ở TRƯỚC KHI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Năm 1910, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh - Phan Thiết vào Sài Gòn (ngày 19 tháng 9 năm 1910). Người được cán bộ của Liên Thành thương quán là ông Trương Gia Mô (bạn thân của ông Nguyễn Sinh Huy, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) và ông Hồ Tá Bang giúp đỡ đưa về ở tại căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm. Đây là một trong những cơ sở của Liên Thành thương quán, một tổ chức hoạt động cách mạng rất có uy tín tại Sài Gòn để sinh sống và chuẩn bị cho việc ra đi tìm đường cứu nước. Từ căn nhà này, Nguyễn Tất Thành vừa đi dạy học vừa đi làm và học nghề ở trường thợ máy École des Mécaniciens, có lúc đi bán báo ở khu vực thương cảng Sài Gòn để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân, nhân dân lao động cũng như các tàu ra vào cảng Sài Gòn. Trong thời gian này, Nguyễn Tất Thành quen một số người Việt làm ở hãng Năm Sao (hãng tàu Năm Sao thường chạy tuyến hàng hải Sài Gòn - Đà Nẵng, Colombo và một số cảng của Pháp) như Nguyễn Văn Hùm, Bùi Văn Viên… Được biết hãng này đang tuyển “bồi”, Nguyễn Tất Thành và một số người Việt Nam đã đến xin việc và được hãng thu nhận. Ngày 4 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba (do các ông Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất giúp đỡ và đổi tên là Văn Ba trước khi vào Sài Gòn) đã rời cơ sở Liên Thành thương quán xuống con tàu của Pháp mang tên Amiral Latouche Treville. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, con tàu rời bến cảng Nhà Rồng - Sài Gòn đưa theo Văn Ba (Nguyễn Tất Thành) bắt đầu xa quê hương Việt Nam ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin và đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Người đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, lập nên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Suốt cả cuộc đời, Người đã vì nước, vì dân. Tư tưởng và đạo đức của Người luôn tỏa sáng soi đường cho dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Chủ nghĩa xã hội - Chủ nghĩa cộng sản. Căn nhà số 5 đường Châu Văn Liêm có giá trị lịch sử - là nơi ghi dấu một giai đoạn rất quan trọng trong bước đường đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây, có một khu trưng bày những hình ảnh về Công ty Liên Thành và hình ảnh Sài Gòn thời kỳ 1910 - 1911. Với ý nghĩa lịch sử ấy, căn nhà này được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử Quốc gia theo Quyết định số 1288-Văn Hóa/Quyết Định ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử thành phố Hồ Chí Minh.

TP Hồ Chí Minh 2137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử chiến trường Bình Giã

Đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Bình Giã là địa bàn quan trọng đối với địch về quân sự, chính trị, kinh tế. Xung quanh Bình Giã, địch bố trí một lực lượng quân sự hùng hậu, được trang bị vũ khí hiện đại, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cố vấn Mỹ. Trước tình hình này, để tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam, ngày 2-12-1964, ta quyết định mở chiến dịch Bình Giã. Lực lượng tham gia Chiến dịch Bình Giã của ta gồm có: 2 trung đoàn bộ binh (761 và 762), 4 tiểu đoàn trợ chiến (cối 81, ĐKZ 75, trọng liên 12,7) của Bộ Tư lệnh miền; 2 tiểu đoàn (d800 và d500) của Quân khu 7; đại đội 445 của tỉnh Bà Rịa; 1 tiểu đoàn (d186) của Quân khu 6 và lực lượng tại chỗ của địa phương. Vũ khí trang bị cho các lực lượng chủ yếu là vũ khí cũ và vũ khí lấy được của địch trong các trận chiến trước đó. Mặc dù lực lượng tham gia chiến dịch mỏng, trang bị vũ khí còn thiếu thốn và thô sơ nhưng dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Trung ương cục, Bộ Tư lệnh miền và đặc biệt là tinh thần chiến đấu anh dũng của các cán bộ, chiến sĩ và các tầng lớp nhân dân, ta đã giành chiến thắng vang dội. Kết thúc Chiến dịch Bình Giã (7-3-1965), ta tiêu diệt gọn Tiểu đoàn thủy quân lục chiến 4, Tiểu đoàn biệt động quân 33 và Chi đoàn xe cơ giới M113; đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn khác và nhiều đại đội; bắn rơi, phá hủy 56 máy bay, 45 xe quân sự; tiêu diệt và làm bị thương hơn 1.700 quân địch; thu hơn 1.000 khẩu súng các loại và gần 100 máy thông tin. Qua chiến dịch, ta phá banh, phá rã nhiều “ấp chiến lược”, cơ bản giải phóng vùng nông thôn các huyện Châu Đức, Long Đất, Xuyên Mộc và một phần huyện Xuân Lộc. Nhờ vậy, căn cứ kháng chiến của ta được mở rộng từ Châu Pha, Hắc Dịch nối liền với chiến khu D. Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cách mạng miền Nam. Chiến thắng này đã chứng minh tính đúng đắn về đường lối cách mạng miền Nam của Đảng; chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta về chiến thuật, chiến dịch và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến; tạo bước ngoặt so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Bên cạnh đó, Chiến thắng Bình Giã còn có ý nghĩa chính trị to lớn ở trong và ngoài nước. Nó tăng thêm niềm tin tất thắng của toàn dân, toàn quân ta, từ đó tiếp tục vượt qua mọi khó khăn gian khổ, vươn lên giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vào ngày 30-4-1975. Để ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ trên vùng đất Bà Rịa - Vũng Tàu, Lãnh đạo và nhân dân trong Tỉnh đã xây dựng tượng đài Chiến thắng Bình Giã nằm sát bên quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao. Khuôn viên Tượng đài rộng 20.000m2, gồm vườn hoa, khu Tượng đài, Đền thờ và các công trình phụ... Thân tượng cao 26m, màu ghi sáng, đặt trên bệ đá hoa cương đen cao 3m, tạo cảm giác mạnh mẽ. Với ba bàn tay nắm chặt đốc lê, phía trên là ba lưỡi lê vươn lên nền trời xanh tượng trưng cho ba thứ quân và ba mũi giáp công trong chiến thắng Bình Giã. Hai bên tượng đài là hai bức phù điêu (dài 7m, cao 3m) được ghép từ hàng ngàn mảnh gốm màu Bát Tràng (Hà Nội) thể hiện sự phối hợp chiến đấu và chiến thắng trong chiến dịch Bình Giã. Di tích đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-Quyết Định /Bộ Trưởng, ngày 15 tháng 10 năm 1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2076 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích lịch sử khu căn cứ Núi Dinh

Khu căn cứ Núi Dinh thuộc địa phận 3 xã: Hội Bài, Long Hương và Châu Pha huyện Châu Thành tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Vào đời vua Gia Long, Núi Dinh thuộc tổng Phước An, phủ Long Phước, thị trấn Biên Hòa. Đời Minh Mạng, Núi Dinh thuộc phủ Phước Tuy, trấn Biên Hòa., trước 1975 thuộc tỉnh Phước Tuy, sau đó thuộc tỉnh Đồng Nai. Dãy Núi Dinh nằm về phía đông bắc tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, là một dãy núi quan trọng trong tỉnh với nhiều ngọn núi cao: núi Cao 193m, núi Dinh cao 491m, núi Bao Quan 504m, núi Da Dâu 436m. Núi Dinh được cấu tạo bằng đá Granit trong, hạt mịn màu ghi hoặc đen rất có giá trị trong xây dựng. Địa hình củ Núi Dinh có vị trí chiến lược quan trọng, từ đây có thể bao quát, án nhữ toàn bộ khu vực phía đông Sài Gòn, phía bắc là thành phố Biên Hòa cách 97 km, phía đông là căn cứ Minh Đạm (Long Đất), phía nam là Biển Đông, phía tây là thành phố Vũng Tàu cách 22 km, sông Lòng Tàu và sông Thị Vải. ới địa thế hiểm trở và thuận lợi, Núi Dinh được Thị ủy Bà Rịa và huyện Châu Đức tỉnh BRVT chọn làm căn cứ cách mạng trong 2 thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Từ căn cứ vừa có thể quan sát tập hợp lực lượng thọc sâu vào trung tâm đầu não và uy hiếp địch. Ngược lại địch dễ dàng tập trung đánh căn cứ bất kỳ lúc nào vào lực lượng của ta trên căn cứ. Căn cứ cách mạng núi Dinh (quốc lộ 51, thuộc địa phận thị xã Bà Rịa và huyện Tân Thành) là di tích lịch sử cách mạng độc đáo của Tỉnh, trải dài trên một diện tích rộng địa hình phức tạp, an toàn trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của tỉnh. Hiện trạng cảnh quan di tích không có sự thay đổi nhiều. Cảnh quan và cây rừng được bảo vệ và phát triển tốt. Các hang động vách núi đá thiên nhiên, địa hình xưa kia tận dụng làm căn cứ vẫn còn nguyên vẹn, không có sự xâm hại bởi yếu tố con người. Di tích bao gồm các địa điểm: Hang Dây Bí, hang Tổ, hang Mai, hang Ông Trọng, căn cứ Bưng Lùng, hang Dơi, căn cứ Chùa Diệu Linh. Với giá trị lịch sử to lớn đó , khu căn cứ Núi Dinh được Bộ Văn Hóa Thông Tin xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết Định số 2015 Văn Hóa /Quyết Định, ngày 16/12/1993 của Bộ Văn Hóa Thông Tin. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 2114 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di tích Niết Bàn Tịnh Xá

Chùa nằm trên sườn Núi Nhỏ, hướng mặt ra biển. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc sắc sảo. Ngày 14/12/1989, chùa được Bộ Văn hóa, Thông tin công nhận xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định 1987. Trước chùa có một trụ Phướn cao 21m, có 42 não biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam từ thế kỷ thứ 2, trụ được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen tỏa đều ra ba hướng là một nét độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá. Hai bên cổng chùa đặt 2 pho tượng "Thần Thiện" và "Thần Ác". Khu chính điện thờ bức tượng "Phật Nằm" màu nâu hồng được đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng nhìn về hướng Tây, dài 12m và được đặt lên bệ thờ cao 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có hình tượng các đồ đệ của Phật Thích Ca đang chứng kiến lúc ngài nhập điện. Phía trên đầu và sau lưng Đức Phật Nhật Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh với 2 cây Long Thọ, điểm tô thêm con công, con hạc dang rộng cánh ẩn hiện trong mây, con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục Chầu Đức Phật viên tịch Nhập Niết Bàn. Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hòa, tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh chốn cửa Phật. Phía trước chánh điện có một chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Ly, Quy, Phụng) có kích thước lớn, được trang trí khéo léo công phu là báu vật của chùa. Phía sau chánh điện là "Trai đường" của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh diễn tả lại cuộc đời đức phật từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá Lợi. Trong phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác như tranh Di Lặc Lục Trần... Khoảng sân lầu 3 có nhiều cây cảnh, nhưng đặc biệt là chiếc thuyền Bát nhã, hình tượng một con rồng lớn cách điệu, dài 12m, xung quanh được ốp mảnh sứ men lam, men màu. Thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt con người ra khỏi khổ ải đến chốn vĩnh cửu bất diệt. Nổi bật trên sân này là một lầu chuông hình vuông, bốn mái uốn cong, trong tháp có một chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung, cao 2,8m, chu vi 3,8m, nặng tới 3,5 tấn. Đây là chiếc chuông lớn nhất, nặng nhất và có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở Vũng Tàu. tương truyền rằng những ai đến đây khấn vái, cầu nguyện xin an lành nếu dán được mảnh giấy cầu an lên chiếc chuông này thì sẽ được toại nguyện. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1683 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu di tích lịch sử Minh Đạm

Nằm ở phía đông nam huyện Đất Đỏ, khu căn cứ Minh Đạm (hay còn gọi núi Minh Đạm) trước kia còn có tên gọi là Châu Long – Châu Viên. Núi Minh Đạm dài 8km và độ cao là 355m, với 3 mặt giáp biển cùng nhiều hang đá lớn nhỏ bí ẩn núp dưới những rừng cây, vách đá, suối nước ngọt róc rách quanh năm. Núi Minh Đạm được bắt nguồn từ tên ghép của hai chiến sĩ cách mạng đã hi sinh khi đang bị phục kích ở dưới chân núi – Bùi Công Minh và Mạc Thanh Đạm. Năm 1993, nơi đây đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (tiền thân của bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia và trở thành địa điểm du lịch về nguồn lý tưởng cho du khách. Núi Minh Đạm là nơi ghi nhận công ơn của các anh hùng dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Căn cứ hoạt động cách mạng ở núi Minh Đạm thời điểm đó có tên gọi là “chiến khu Minh Đạm”. Nay sau khi được trùng tu, xây dựng lại thành địa điểm tham quan du lịch có tên gọi ”khu di tích Minh Đạm”. Căn cứ núi Minh Đạm có 4 khu vực chính: Chùa Viên, Chùa Giếng Gạch, khu Châu Viên và khu Đá Chẻ được nối với nhau bằng con đường lát đá xuyên rừng. Tại đây, những dấu tích thuở xưa đang được bảo tồn là các kỷ vật thời chiến như bàn ghế, bếp núc, cầu gỗ cùng một số vật dụng thô sơ giúp cho khách tham quan có thể hiểu rõ hơn về cuộc sống sinh hoạt của bộ đội ta như cách tạo ra lửa từ đá, nấu cơm lam từ ống nứa... Đến với Núi Minh Đạm ngoài việc tìm hiểu về lịch sử, bạn còn được tham quan nhiều nơi lý thú, đặt chân vào những hang đá xưa kia từng là nơi làm việc, sinh hoạt của cán bộ, quân dân Bà Rịa – Vũng Tàu như hang Huyện Ủy, Quân Y, Quân Giới ….Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp( 1946 - 1954), dãy núi Minh Đạm là căn cứ của lực lượng cách mạng địa phương. Do địa hình núi phức tạp, khó tiếp cận, quân và dân ta đã chọn đây làm căn cứ chiến đấu bảo vệ cho các cuộc tấn công vào quân Pháp. Trong suốt thời gian này nhiều trận đánh lớn đã diễn ra tại đây, và quân đội Việt Minh đã lập được nhiều chiến công vang dội. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1955 - 1975), núi Minh Đạm tiếp tục trở thành căn cứ quân sự quan trọng của lực lượng cách mạng. Ngoài ra, Minh Đạm còn là nơi tưởng niệm những chiến sĩ hy sinh vì sự nghiệp dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

TP Hồ Chí Minh 1707 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa