Di tích lịch sử

Việt Nam

Chùa Động Ngọ

Là một ngôi chùa cổ tọa lạc tại thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến (trước thuộc huyện Thanh Hà), thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Chùa Động Ngọ là một trong hai ngôi chùa cổ nhất của Hải Dương. Niêm đại chùa có hơn 1000 năm tuổi, trong chùa có nhiều cây cổ thụ có khoảng 600 đến 700 tuổi. Quốc sư Khuông Việt đã xây dựng chùa này vào năm 971 theo chiếu lệnh của vua Đinh Tiên Hoàng. Hiện nay chùa mang nhiều dấu ấn kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ XVII, thuộc hệ phái Bắc tông, là di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Trước năm 1947, chùa có quy mô lớn. Nay nhỏ lại, bố cục vuông vắn, hình chữ quốc, mỗi mặt 5 gian. Đặc biệt là tòa Cửu phẩm vuông, hai tầng 8 mái, với 4 cột suốt, 12 cột con đỡ, 4 mái dưới, mái tầng trên đỡ thêm bởi 4 cột con. Chùa Động Ngọ còn có nhiều công trình kiến trúc độc đáo bằng đá mới được xây dựng gần đây. Từ cuối thế kỷ XX, đại đức Thích Thanh Thắng, khi về trụ trì tại đây, đã đi khắp các vùng Bắc Bộ kiếm tìm những cối đá, trục đá, cầu đá, quả trục lăn lúa mang về chùa rồi sắp đặt thành các công trình đặc sắc. Nổi bật là bờ tường với chấn song trục đá; hai chiếc giếng tròn được trang trí bằng rất nhiều trục đá, cối đá trước sân chùa; cây cầu đá dài gần 3m; hành lang, lối đi bằng cối đá đủ các kích cỡ. Đặc biệt là tấm bản đồ Việt Nam dài 30m, rộng 10m được xếp bằng khoảng 300 cối đá trong khuôn viên chùa. Chùa có 07 tấm bia cổ hai mặt khắc hai bài ký với hai niên đại sớm gồm: Lý Thái Bình (Lý Thánh Tông, 1054 – 1058, niên hiệu Long Thụy Thái Bình) và Đại Chính nguyên niên (Mạc Thái Tông, 1530). Ngoài ra có một bát hương năm Hoằng Định thứ 19 (1619). Tấm bia “Kiến khai Cửu Phẩm Liên Hoa bi ký" có niên đại năm Chính Hòa thứ 13 (1692) (đời vua Lê Hy Tông), xác nhận niên đại của kiến trúc hiện thời, bia ghi. Cây Cửu Phẩm Liên Hoa hơn 320 năm tuổi là tác phẩm nghệ thuật giá trị và lâu đời nhất tại chùa hiện nay. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận tòa Cửu Phẩm Liên Hoa này là bảo vật quốc gia. Hiện nay tại Việt Nam chỉ tồn tại đúng ba tòa tháp Cửu phẩm liên hoa cổ bằng gỗ, hai tháp còn lại đặt tại chùa Giám (Hải Dương) và chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Cây Cửu Phẩm Liên Hoa đặt ở giữa lòng nội thất tòa (nhà) Cửu phẩm, cao 5m30, mặt cắt 6 cạnh đều, 8 tầng dưới, mỗi tầng cao đều 54 cm, tầng trên cùng cao 98 cm. 9 tầng, 6 mặt, mỗi mặt gắn 3 pho tượng nhỏ, tổng số tượng là 162 pho, năm 1989 còn 146 pho. Ba tượng nhỏ mỗi mặt gồm Phật A Di Đà ở giữa, hai bên là tượng Quan Âm Bồ Tát và Thế Chí Bồ Tát, cũng có cạnh là tượng Phật A Di Đà và Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiển Bồ Tát. Các tượng có kích cỡ bằng bắp tay được tạo tác bằng gỗ, thếp vàng rất tinh xảo. Nhìn tổng thể, tòa cửu phẩm là một kiến trúc đặc sắc về thế giới Phật pháp vô biên, huyền diệu, tầng tầng lớp lớp. Cây Cửu Phẩm Liên Hoa được đặt trên những chiếc chân cột đá hình hoa sen. Trước đây đài cửu phẩm có thể quay tròn quanh trục. Qua thời gian, đến nay đài cửu phẩm không còn quay được nữa. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Tiền Tiến , thành phố Hải Dương.

Hải Phòng 2086 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Mai Xá ( Đình Mai Hiệp Lực)

Đình Mai Xá (còn có tên gọi là đình Hóp Mòi), thôn Mai Xá, xã Hiệp Lực, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu khảo sát di tích và các thư tịch cổ liên quan, đình Mai Xá là nơi thờ Tứ vị tôn thần gồm: Ông Thinh, Ông Linh, Phúc Chính và Đào Từ Nhân. Trong đó ông Thinh, ông Linh là Thiên Thần, Phúc Chính và Đào Từ Nhân là nhân thần được thờ theo tín ngưỡng dân gian từ lâu đời của nhân dân địa phương. Căn cứ vào tấm bia đá: “Lê triệu vạn vạn tuế, Trịnh chúa vạn vạn niên, Lưu truyền vạn vạn đại, lập miếu đình bi ký” hiện còn lại di tích. Đình Mai Xá được dựng vào năm Chính Hòa thứ 13 (1692) tại xã Lực Đáp, tổng Bất Bế, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Vùng đất này là nơi: “ rồng chầu, hổ phục” phía trước có dòng sông quanh co uốn khúc là nơi hội tụ khí thiêng “Địa linh nhân kiệt”, sinh ra nhiều bậc hiền tài có công giúp nước, bảo vệ cuộc sống nhân dân ổn định. Nhân dân đã dựng đình và khắc bia ghi nhận tính danh của những người đóng góp công đức để lưu truyền lâu dài. Kiến trúc tổng thể di tích cũ không còn song căn cứ vào dấu vết nền móng, ngôi đình ban đầu được xây theo kiểu chữ “Đinh” ( J ) gồm 5 gian Đại bái và 3 gian Hậu cung với quy mô khá lớn. Xung quanh đình có nhiều ao hồ. Đình Mai Xá là một trong những kiến trúc cổ đẹp nổi tiếng đương thời trong vùng. Căn cứ vào hệ thống văn khắc Hán nôm hiện còn tại Đại bái, đình Mai Xá được trùng tu vào ngày lành, tháng nhuận, năm Thành Thái- Quý Mão (1903). Các cụ cao niên trong thôn Mai Xá cho biết: lần trùng tu này toàn thể nhân dân trong bản xã đóng góp công đức. Công trình do ông Lê Lương Hãnh- Tiên chỉ làng Mai Xá trực tiếp đặt chồng nóc; ông Mai Quang Oanh làm” Giám biên” (ghi chép), ông Lê Lương Oánh làm “Giám chương” (đôn đốc nhân công), ông Đào Đình Uyển làm “Thủ quỹ” (giữ tiền và mua bán hàng hóa). Hai hiệp thợ Nam Hà cùng thi công, nửa phía tây do thợ Cao Đà, nửa phía đông do thợ Đông Hồ thực hiện. Theo yêu cầu của các Hương lão: sau khi thống nhất quy cách, kiểu dáng, các hiệp thợ bí mật trổ tài, nếu bên nào làm đẹp sẽ được thưởng. Kết quả là cả hai đều chạm khắc rất thành công được bản xã thưởng lớn. Đình Mai Xá là một trong số ít công trình đẹp nổi tiếng trong vùng đương thời. Năm 1946- 1947, hưởng ứng phong trào: “Diệt giặc dốt” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, địa phương đã cho tháo dỡ sàn đình để đóng bàn ghế cho các lớp “Bình dân học vụ”, góp phần cùng cả nước “Kháng chiến, kiến quốc” thành công. Năm 1948, Ban thông tin văn hóa xã đã tiến hành vẽ tranh cổ động “Chiến thắng Sông Lô” tại đầu hồi phía Tây và viết khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn năm” khá lớn trên mái trước của đình thể hiện quyết tâm chống Pháp của cán bộ nhân dân xã Hiệp Lực. Năm 1949, cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra cam go ác liệt, lực lượng du kích xã quyết định đào hầm bí mật tại Hậu cung đình để bám trụ đến cùng chống Pháp càn quét, bảo vệ quê hương. Tiếp đến năm 1956, đình là nơi chính quyền tổ chức đấu tố địa chủ, thực hiện cải cách ruộng đất thắng lợi. Năm 1965, thực hiện chủ trương “Bài trừ mê tín dị đoan” của huyện, địa phương đã cho giải hạ Hậu cung lấy vật liệu xây dựng công trình phúc lợi trong xã, nhà Đại bái trở thành nơi họp bàn chỉ đạo sản xuất nông nghiệp của xã. Năm 1971, đáp ứng nguyện vọng của toàn thể cán bộ và nhân dân địa phương, Đảng bộ và chính quyền xã Hiệp Lực đã xin phép Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hải Hưng tổ chức dựng tượng đài Hồ Chủ Tịch. Công trình đã được thi công nhiều tháng tại đình trước khi đưa về lắp dựng chính thức tại khu vực trung tâm của xã. Những năm gần đây, nhân dân địa phương tự nguyện công đức tu sửa, từng bước trả lại vẻ đẹp vốn có của di tích. Hiện tại đình Mai Xá là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lành mạnh và học tập đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước của nhân dân địa phương. Vào ngày 10- 15/11 âm lịch hàng năm, nhân dân 3 thôn: Thọ Đa, Hiệp Trung và Tiền Liệt cùng kiệu rước về đình Mai Xá tổ chức lễ hội tôn vinh công đức các Thành Hoàng. Lịch trình lễ hội được quy định khá chặt chẽ. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Hải Phòng 1818 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đỗ Xá

Đình Đỗ Xá xã Ứng Hoè, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương được xếp hạng là di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp Quốc gia theo Quyết định số 05/1999 Quyết Định/Văn hóa thể thao, ngày 24 tháng 01 năm 1999. Đình Đỗ Xá có tên chữ: Đình Đỗ Xá, tên nôm: Đình Đọ, tên thường gọi: Đình Đỗ Xá. Đình tọa lạc trên một khu đất cao ráo, bằng phẳng ở trung tâm của thôn Đỗ Xá. Thôn Đỗ Xá thời xa xưa là Trang Đỗ Xá, thời Lê là xã Đỗ Xá tổng Đông Cao huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương, thời Nguyễn là xã Đỗ Xá, tổng Đỗ Xá, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đình Đỗ Xá từ ngày khởi dựng đến nay được mang tên gọi của thôn Đỗ Xá. Ngược dòng lịch sử căn cứ vào tên gọi của thôn Đỗ Xá và gia phả của một số dòng họ được biết khởi nguyên của cư dân thôn Đỗ Xá là hai dòng họ lớn là họ Đỗ và họ Nguyễn. Hiện nay hai dòng họ này chiếm đại bộ phận dân số trong thôn. Căn cứ vào truyền thuyết trong nhân dân địa phương và những tư liệu Hán, Nôm nhất là thần tính hiện lưu giữ tại Đình cho thấy Đình Đỗ Xá được xây dựng để thờ 03 anh em Nguyễn Tôn, Nguyễn Lâu và Nguyễn Lãng đã có công phò vua Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa chống giặc Minh thế kỷ XV. Giặc Minh sang xâm lược nước ta, tội ác của chúng chồng chất cao như núi không sao kể xiết. Nhân dân ta không chịu cảnh nước mất, nhà tan đã vùng dậy đấu tranh. Ở vùng Lam Sơn (Kẻ Cham) nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa có người anh hùng Lê Lợi đứng lên chiêu mộ nhân sỹ, hào kiệt, tập luyện nghĩa quân cùng nhau đánh giặc cứu nước. Thuở ấy ở Thái Bình có một người tên là Nguyễn Chuyên, vợ là Đào Thị Lợi hai vợ chồng cưới nhau đã lâu nhưng chưa có con, một đêm bà ngủ mộng thấy một cụ già cho ba quả đào rồi biến mất, sau đó bà thụ thai đủ tháng rồi sinh ra một cái bọc có 03 người con trai. Ông bà vui mừng đặt tên cho ba con là Nguyễn Tôn, Nguyễn Lâu và Nguyễn Lãng, ba đứa trẻ lớn lên có diện mạo khôi ngô, tuấn tú, năm lên 7 tuổi đã tinh thông kinh sử, võ nghệ cao cường, tài năng nổi tiếng. Năm 15 tuổi, các ông đã sớm phát lộ tài năng văn, võ. Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, chọn người giúp nước, biết ba ông có tài, Lê Lợi đã phong Nguyễn Tôn làm Đô chỉ huy sứ đương lộ tướng quân, Nguyễn Lâu làm Tả Đô đài tướng quân, Nguyễn Lãng làm Hữu Đô đài Thái bảo tướng binh. Ba ông bái lĩnh 5.000 quân, khí giới, lương thực, cờ xí, chiêng, trống. Sau một đêm, nghĩa quân tiến binh về trang Đỗ Xá, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương nay là thôn Đỗ Xá, xã Ứng Hòe, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương lập đồn trú để tuyển quân. Trận đánh diễn ra ác liệt, quân giặc đại bại. khởi nghĩa thắng lợi, ba ông khao thưởng quân sĩ. Quốc an hưởng lạc, khai hóa ruộng đồng, nhân dân phú túc phồn vinh. Bỗng một hôm trời nổi phong ba có đám mây 3 màu tím, đỏ, hồng bao phủ ba ông thượng khứ tòng vân không thấy trở về, hôm đó là vào ngày 10 tháng 3 nhân dân gọi là ngày hóa. Sau này vào ngày mùng 10 tháng 3 cấm vui chơi, ca hát, cấm dùng các màu tím, đỏ, hồng. Lê Lợi sai sứ về cắt ruộng xây miếu thờ và phong là Thượng đẳng thần: Nhất phong Minh Tôn Đại vương, Nhất phong Khổng Lâu Đại vương, Nhất phong Tăng Lãng Đại vương. Đình Đỗ Xá xây dựng vào thời Hậu Lê với quy mô khá lớn. Để ghi nhớ công lao của ba ông hàng năm vào ngày 11 tháng 11 (âm lịch) nhân dân mở hội tế lễ 10 ngày để kỷ niệm ngày sinh và ngày mất. Trong lễ hội ngoài tế lễ còn tổ chức hát chèo, múa rối nước và thi pháo đất. Đình Đỗ Xá không chỉ gắn liền với tên tuổi của ba vị tiền bối đã có công trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh thế kỷ XV mà còn gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử của địa phương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1946-1954 nhiều hầm hào bí mật đã được đào trong hậu cung đình, bộ đội chủ lực của huyện Ninh Giang đã nhiều lần đến đóng và trú ẩn tại đây. Năm 1946 Đình là nơi nhân dân tiến hành bầu cử Quốc hội Khóa 1, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1966 đến năm 1969, từ năm 1972 đến năm 1973 tiền tế của Đình Đỗ Xá được sử dụng làm hội trường phân hiệu II - trường Nguyễn Ái Quốc trung ương. Năm 1967 đồng chí Lê Duẩn lúc đó là Bí thư thứ Nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã về thăm và nói chuyện với nhân dân địa phương tại Đình làng Đỗ Xá. Từ năm 1974 đến nay tiền tế Đình Đỗ Xá được sử dụng làm hội trường của xã đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử của nhân dân thôn Đỗ Xá nói riêng và chính quyền xã Ứng Hòe nói chung. Phát huy truyền thống của cha ông, Đảng bộ và nhân dân xã Ứng Hòe đã không ngừng phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Hải Phòng 1892 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Quan Lớn Tuần Tranh ( Đền Tranh )

Đền Tranh tọa lạc tại thôn Tranh Xuyên, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương với tổng diện tích là 29.417m2. Đền Tranh thờ Quan đệ Ngũ Tuần Tranh là vị tôn quan thứ 5 trong Ngũ vị Tôn Ông của tín ngưỡng thờ Tứ phủ trong dân gian của người Việt. Hiện di tích đền Tranh tọa lạc trên khuôn viên rộng rãi với 34 gian lớn nhỏ, bao gồm 7 gian tiền tế, 7 gian trung từ, 7 gian nhà nối, 3 gian cổ dải, 3 gian hậu cung, 7 gian đông vu và nhiều công trình phụ trợ khác như tòa đông vu gồm 7 gian đao tầu déo góc, chất liệu bằng gỗ lim, lợp ngói mũi; nghi môn được xây dựng theo kiểu "chồng diêm cổ các", gồm 2 cửa phụ một cửa chính, quy mô lớn như nghi môn xưa; nhà bia, đài hóa sớ… Ông Vũ Đình Tiến, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương cho biết, đền Tranh xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật quốc gia theo Quyết định số 1214/Quyết định -Bộ văn hóa , thể thao và du lịch, ngày 25/3/2009. Lễ hội truyền thống đền Tranh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 781/Quyết Định -Bộ Văn hóa , thể thao và du lịch ngày 4/4/2022. Đây là tài nguyên nhân văn quý giá, có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần không chỉ của cộng đồng nhân dân địa phương mà còn của cả con dân đất Việt, điều đó càng khẳng định cho việc xác định tiềm năng, thế mạnh của di tích trong việc đóng góp vào sự phát triển du lịch của huyện Ninh Giang nói riêng, tỉnh Hải Dương nói chung. Nguồn Bộ Văn hóa , thể thao và du lịch.

Hải Phòng 1909 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Sùng Ân (chùa tế cầu)

Chùa Sùng Ân thuộc thôn Đông Cao, xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang (Hải Dương) được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia ngày 15/3/1974 về nghệ kiến trúc điêu khắc. Đây cũng là ngôi chùa được xếp hạng di tích Quốc gia sớm nhất của huyện. Trước đây chùa Sùng Ân đón các sư, sãi về dáng hạ vào tháng ba hàng năm và là chốn Tổ của thiền phái trúc lâm vùng đất xứ Đông Hải Dương. Di tích ở thôn Đông Cao, xã Đông Xuyên, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá quốc gia từ ngày 15/3/1974. Lịch sử – kiến trúc Chùa có từ thời Lý, được trùng tu vào thời Trần. Quy mô chùa khá lớn, bố cục kiểu nội Công ngoại quốc . Mái lợp ngói mũ hài cổ kính. Chùa thờ Phật và thờ Huyền Quang đại sư thuộc phái Trúc Lâm thời Trần. Di vật Chùa còn một cây thiên đài bằng đá cao 1.7 m dựng năm Cảnh Trị 9 (1671), 6 sấu đá, 3 bia đá thế kỷ XVII, một hệ thống 30 tượng Phật gỗ sơn thếp vàng, nghệ thuật điêu luyện, nhưng trong 10 năm qua, 9 trong số 30 pho tượng cổ đã bị kẻ gian lấy trộm. Nhà tiền đường có một quả chuông, đúc năm Gia Long 11 (1812) thân cao 90 cm, đường kính 62.5 cm, toàn thân phủ kín bài minh, rất đẹp. Đặc biệt là bệ đá hoa sen hình lục giác 2 tầng có chạm rồng mào lửa, thân nhiều nếp gấp khúc. Chùa Sùng Ân có diện tích gần 5000m2. Quy mô chùa gồm một chùa chính được xây dựng kiểu chữ Đinh, động thờ Mẫu, nhà thờ Tổ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chùa Sùng Ân là nơi sơ tán, nuôi dấu cán bộ Việt minh. Hàng năm vào ngày 15/3 Âm lịch nhân dân mở hội. Trong những năm qua, cán bộ nhân dân thôn đã quyên góp trên 1 tỷ đồng và hàng nghìn ngày công để xây dựng các hạng mục tường bao, nhà khách, giếng ngọc, và sân. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang , tỉnh Hải Dương.

Hải Phòng 1964 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Kiền Bái

Đình Kiền Bái nằm ở xã Kiền Bái, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Xưa kia, Kiền Bái còn có tên là Hổ Bái Trang thuộc huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Trang Hổ Bái nằm ngay ở xóm Đông. Các vị thần được thờ ở đình là: - Trung Quốc Cảm ứng thượng đẳng thần. - Lôi Công Uy Diệu thượng đẳng thần. Theo "Thuỷ Nguyên huyện thần tích" hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội, đình Kiền Bái thờ hai vị thành hoàng Ngọc và Bích, là hai anh em sinh đôi. Tương truyền lúc mới sinh, 2 vị đều khôi ngô tuấn tú, nhưng đều mất sớm, rất linh thiêng, đã nhiều lần phù hộ dân làng Kiền có cuộc sống yên ổn, làm ăn thịnh vượng. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta (1287 - 1288), 2 vị âm phù Vua Trần đánh giặc. Vua cho lập đền thờ và phong thần hiệu: Trung Quốc Cảm ứng thượng đẳng thần và Lôi Công Uy Diệu thượng Đẳng thần. Đình Kiền Bái được xây dựng vào nửa cuối thế kỷ XVII, Đình có cấu trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Tiền đường, trừ gian giữa( khoang thuyền), 4 gian đều bưng gỗ, lát ván sàn. Trên cột cái, vì xà chính ghi năm tạo dựng (1681) và tên những người đóng góp công đức. Đây là công trình kiến trúc điêu khắc tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lê hiện còn lại ở Hải Phòng. Điểm nổi bật cửa đề tài trang trí trên công trình kiến trúc nghệ thuật này là bên cạnh hình ảnh rồng, phượng, hoa lá cách điệu, tia lửa, lưỡi mác... còn thấy rất nhiều cảnh sinh hoạt dân gian rất tự nhiên, sinh động. Đó là hình rồng nối đuôi nhau, trước mặt rồng có nhiều con thú 4 chân leo trèo trong đám vây rồng; có mảng hình rồng đan xen với thú 4 chân như thằn lằn, voi, ngựa, lợn ăn lá dáy; có mảng là cảnh sinh hoạt hình em bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên mình trâu... Hội làng Kiền tổ chức từ ngày 10 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Vào những ngày này, dân làng ra đình tế lễ và nô nức vào hội: Hội hát đúm, hội nấu bánh chưng... Trong đó, nổi bật là trò chơi dân gian: cướp cây bông. Để có được hội cướp cây bông, cả làng phải đi chọn 2 cây tre cao nhất. Nhà nào chọn được tre thì phải mang bánh trưng ra đình tế. Ông mạnh bái chọn 10 thanh niên từ 18 tuổi trở lên chưa vợ hoặc là con trai đầu lòng chặt cành của 2 cây tre, rồi mỗi người chọn 2 mắt tre làm 2 cây côn(gậy) dài độ 5 trượng đem vào thờ trong đình. Cũng 2 cây tre đó được chặt hai khúc thành hai cây bông. Trong 10 trai tráng trẻ, chọn ra 2 người vót cây bông. Người vót cây bông, trước hết phải nạo hết vỏ xanh của tre, rồi dọc theo tre mà vót thành hình cái hoa ở 2 đầu. Để cho cây bông được đẹp, người ta lấy giấy kim tuyến quấn vào từng tua tre một, rồi buộc chỉ ngũ sắc vào... Hai cây bông được rước vào đình. Cướp cây bông diễn ra 2 đợt: trước tiên là lễ cướp thờ (không có giải), sau đó mới là lễ cướp giải. Tại lễ cướp thờ, khi ông mạnh bái tung cây bông lên thì 10 thanh niên quần đỏ, khăn điều, thắt lưng xanh xông vào cướp dưới sự hò la cổ vũ của dân làng. Tiếp đến là lễ cướp giải, tất cả mọi người đều tham gia. Cuộc cướp cây bông diễn ra rất vui, có khi kéo dài đến sáng. Ai được giải cướp cây bông thì được ăn bánh của người giải nhất cuộc thi bánh chưng. Thường thường, những người đoạt giải nhất cuộc thi cướp cây bông, cuộc thi nấu bánh chưng, nếu họ chưa vợ, chưa chồng thì được dân làng vun vén thành vợ, thành chồng. Người được trúng giải cướp cây bông thường được dân làng nể nang vì họ đã được diễm phúc của thần ban cho. Vì cướp cây bông vui nhất trong hội làng nên người ta cũng đặt thành câu ca để nhắc nhở nhau: Làng Kền(Kiền) có lễ cây bông Rước lên Dọc Muống hội đồng giao quan Mười một đánh bài giao quan Mười hai tế yến thì chàng phải sang... Còn trong hát đúm, thanh niên nam nữ thường tế nhị biểu thị tình cảm với nhau: - Mười hai nữ hội thi rồi Sao anh còn ở tại nơi sân đình Ngó ngang ngó dọc chi tình Đây mà thua cuộc trách mình lắm thay - Ai ơi đừng trách anh đây Cối đây mà giã bánh giầy thêm ngon. - Nếu ai thắng giải đình xuân Mình đây xin có tranh phần cây bông. Đình Kiền Bái là di tích lịch sử văn hoá có giá trị nghệ thuật cao, được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia năm 1986.

Hải Phòng 3309 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu di tích Đền Nghè

Nằm ở trung tâm thành phố Hải Phòng thuộc phường Mê Linh (nay là phường An Biên, quận Lê Chân), đền Nghè là Di tích lịch sử văn hoá thờ nữ tướng Lê Chân. Bà quê ở làng An Biên (thuộc Đông Triều, Quảng Ninh) đã đến vùng đất nơi ngã ba sông Tam Bạc đổ vào sông Cấm, lập ấp Vẻn, sau đổi là An Biên Trang, hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40 - 43) chống quân Đông Hán xâm lược. Bà là một nữ tướng tài ba, anh dũng, lập nhiều chiến công vang dội trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được Trưng Vương phong chức Chương quản binh quyền nội bộ, giao trọng trách trấn giữ miền Hải Tần. Để tưởng nhớ công lao của nữ tướng, người lập ra làng An Biên xưa và đặt nền móng cho thành phố Hải Phòng ngày nay, nhân dân đã lập lên toà miếu An Biên thờ Bà. Buổi đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ lợp tranh, đến năm 1919, được xây dựng khang trang. Đền Nghè hiện nay là một công trình mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn, đầu thế kỷ XX bao gồm: tam quan, toà bái đường, thiêu hương, hậu cung, giải vũ, nhà bia, nơi đặt tượng voi đá, ngựa đá. Sau lại làm thêm toà tứ phủ. Toà bái đường gồm 5 gian được nâng đỡ bởi 16 cột lim, kê trên 16 viên đá tảng đục đẽo công phu, tỉ mỉ. Chính giữa nóc nhà bái đường đắp nổi hàng chữ Hán lớn An Biên cổ miếu. Hậu cung gồm 3 gian, xây cao hơn nhà bái đường với thiết kế kiểu 2 tầng mái, làm tăng thêm sự bề thế, uy nghi của công trình. Nét đặc sắc của kiến trúc đền Nghè là nghệ thuật chạm khắc trên gỗ, đá. Với các đề tài long - ly - quy - phượng; tùng - cúc - trúc - mai... Thể hiện kỹ thuật chạm khắc bong hình, chạm nổi, chạm chìm đạt đến trình độ tinh xảo. Hiện nay, đền Nghè còn bảo tồn được nhiều tác phẩm điêu khắc trên đá rất có giá trị. Điển hình là tấm bia đá có kích thước lớn được tạc vào thời Nguyễn, ghi tiểu sử của nữ tướng Lê Chân. Toà bái đường treo khánh đá chạm nổi đề tài vũ hội long vân đường nét tinh vi, mềm mại, uyển chuyển. Ở toà thiêu hương có chiếc sập đá đồ sộ, tạo bằng khối đá liền, chạm nổi hình chim, thú, hoa, lá rất công phu. Tại toà hậu cung, tương Nữ tướng ngồi trên ngai thờ, đặt trong một khám lớn sơn son, thếp vàng với dáng vẻ uy nghi, đôn hậu, xinh đẹp. Hội đền Nghè được tổ chức từ ngày mồng 8 đến ngày mồng 10 tháng 2 Âm lịch, thu hút đông đảo du khách đến tham quan di tích, tưởng niệm nữ tướng Lê Chân.Là di tích lịch sử cấp quốc gia được Nhà nước xếp hạng vào năm 1975. Nguồn : Cổng thông tin điện tử thành phố Hải Phòng .

Hải Phòng 3088 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Đền Mõ

Đền Mõ xã Ngũ Phúc huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng - Nơi thờ Công chúa Quỳnh Trân đời nhà Trần - Được Nhà nước công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1992. (Công nhận Di tích Lịch sử - văn hóa cấp Quốc Gia năm 1992) Ngọc phả triều Trần lưu rằng, Công chúa Quỳnh Trân là con gái vua Trần Thánh Tông - một ông vua hiếu đễ, nhân từ, trọng người hiền, sùng và hiểu thấu đạo phật. Khi Công chúa chào đời nghe trên không trung có tiếng tiêu thiều nhã nhạc, hương lan tỏa mùi sực lức…, lớn lên Công chúa sinh sắc như bình hạc, mặt tựa gương báu, thân thể mang vẻ hoa nở sáng trăng. Vốn giàu đức hạnh từ bi và lòng nhân ái cao thượng, lòng không muốn nhuốm bụi trần, Công chúa đã xin với vua cha cho xuất gia thờ phật. Năm Quý Mùi - 1283, trong một lần qua xã Nghi Dương, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn thấy địa thế này giống như con chim đang bay, núi non, sông nước mênh mông, phong cảnh thanh tịch, cực lạc…Nơi đây có sức hút kỳ lạ khiến bà rời xa hoàng tộc, lá ngọc, cành vàng để “Mộ đạo từ bi dốc trí tu hành, cho thành quả phúc”. Công chúa đã lập ra điền trang thái ấp, cấp lương thực, tiền bạc, dạy dân khai khẩn ruộng nương, gieo hạt, ươm mầm, trồng dâu lấy tơ dệt vải. Mọi người đều vui vẻ như được sống ở cõi đài xuân. Để điều hành công việc hàng ngày của cộng đồng, Công chúa đã nghĩ ra cách lấy tiếng Mõ để làm hiệu lệnh điều hành công việc. Bắt nguồn từ sự việc trên, cái tên “Tổng Mõ, Chợ Mõ, Đền Mõ và Chùa Mõ” xuất xứ từ đó và đã đi vào huyền thoại gắn liền với mảnh đất và con người nơi đây. Trong những năm đất nước lâm nguy giặc Nguyên, Mông tràn sang xâm lược, Công chúa tỏ rõ là một nhà thao lược vẹn toàn. Với lòng yêu quê hương, đất nước, bà đã chiêu tập binh sĩ huấn luyện quân cơ, tích cóp lương thảo cung cấp cho Vua cha đánh đuổi quân xâm lược, góp phần tô thêm vào trang sử vàng son của dân tộc. Sau khi Công chúa viên tịch, nhớ ơn Người, nhân dân địa phương lập đền thờ và kế tiếp nhau lưu truyền hương khói. Đền là một quần thể sinh động, hiện còn lưu giữ 11 bản sắc phong của các triều đại phong kiến ghi nhận công lao đức hạnh của Công chúa (từ triều vua Trần Anh Tông năm 1314 đến Khải Định năm 1924). Đặc biệt, Đền còn có cây Gạo đại thụ do chính bàn tay Công chúa trồng vào năm 1284, hoa rực đỏ, cành lá xum xuê, là một trong những biểu tượng thiêng liêng của Công chúa còn lưu giữ đến ngày nay. (Cây gạo đại thụ Công chúa trồng năm 1284- Được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận là Cây Gạo nhiều năm tuổi nhất Việt Nam) Phát huy truyền thông tốt đẹp đó, trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, chiến tranh bảo vệ biên giới…Nơi đây còn là địa chỉ đỏ của các thế hệ người Ngũ Phúc trước khi lên đường luôn giữ vững niềm tin thắng giặc với lời thề: “Đứng bên đền Mõ mà thề - Không đánh tan giặc không về quyê hương”. Hằng năm đến ngày lễ hội truyền thống các thiện Nam, tín Nữ lại trang trọng các bộ đồ lễ hội, cùng với Nam thanh, Nữ tú, quý khách thập phương, ôn lại một truyền thống cực kỳ quý giá, đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, và cùng nhau thắp hương tưởng niệm người Công chúa tài, sắc vẹn toàn. Nguồn Thành đoàn Hải Phòng .

Hải Phòng 2655 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bà Đế

Hải Phòng là vùng đất gắn với nhiều di tích lịch sử nổi tiếng và linh thiêng. Trong đó, không thể không nhắc đến Đền Bà Đế - địa điểm du lịch tâm linh thu hút rất đông du khách cả nước đến tham quan và chiêm bái hàng năm. Đền Bà Đế không chỉ sở hữu cảnh quan sơn thủy hữu tình mà còn là câu chuyện về cuộc đời bi thương của người con gái hồng nhan bạc phận được tưởng thờ tại đây, đó là bà Đào Thị Hương (tức Bà Đế) - vợ chúa Trịnh Giang, đền Bà từng được vua Tự Đức về thăm và ban sắc phong “Đông Nhạc Đế Bà - Trịnh chúa phu nhân”. Tương truyền, vào năm 1718 ở phía đông nam vùng Ngọc Ðồ Sơn có đôi vợ chồng họ Ðào sinh ra một người con gái đặt tên là Ðào Thị Hương. Nhưng kỳ lạ thay, từ lúc sinh ra cho đến khi lớn lên, người con gái ấy luôn tỏa ra mùi hương thơm ngát, người phát ánh hào quang, đi đến đâu cũng có làn mây che đến đó. Có một ngày Chúa Trịnh Giang đi kinh lý Ðồ Sơn, khi dạo thắng cảnh đã xúc động trước tiếng hát truyền cảm cùng với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Bà, Chúa yêu mến và quyến luyến không rời. Một thời gian sau, Bà mang thai, Hàng Tổng biết chuyện và bắt bố mẹ Bà phải nộp phạt. Nhưng vì nhà nghèo không có tiền nộp phạt, Hàng Tổng đem Bà dìm xuống biển. Trước khi chết, Bà khóc lóc, xót thương cha mẹ cũng như số phận của bản thân. Bà ngửa mặt lên trời khóc than rằng: “Phận gái thân cô, gặp Chúa yêu thương tôi đâu dám chống, nhìn mẹ cha, hàng xóm tôi đâu dám quên. Xin trời phật chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, trời phật cho con nổi lên ba lần”. Quả nhiên bà nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ. Về sau, người dân trong vùng vẫn nghe tiếng bà than khóc trong gió biển: "Khi nào dây mục, cối tan thì mối hận thù này mới được gỡ bỏ”. Sau một tháng, thuyền hoa của chúa về rước bà về kinh. Biết chuyện Chúa Trịnh vô cùng đau khổ và thương tiếc cho Bà. Chúa Trịnh Giang đã cho xây đền, lập đàn giải oan cho Bà. Sự tôn nghiêm của ngôi đền bảo vệ ngôi làng khỏi những tên cướp biển và kẻ xấu. Đền Bà Đế có cấu trúc đơn giản nhưng trang nhã, được xây dựng tựa vào chân núi Độc, hướng ra biển bao la tạo nên một công trình độc đáo. Chính điện của Đền là nơi thờ Bà Đế và cha mẹ bà. Bên trái chính điện là bệ thờ Vua Biển. Cạnh đó là nơi thờ Vua Đất, Vua Núi và chúng sinh. Bên phải gian chính là bàn thờ Tam Tòa Thánh Mẫu - ba vị nữ thần cai quản đất trời sông núi. Đối diện với bàn thờ Tam Tòa Thánh Mẫu là bàn thờ Phật và Đức Đại Vương (Trần Quốc Tuấn) - danh tướng thời Trần. Ngay trước sân Đền là hình ảnh một chiếc thuyền, trên đó có tượng Bồ Tát, xung quanh là hình rồng càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm nơi đây. Mỗi buổi chiều, khi mặt trời đã khuất sau rặng núi Độc, du khách có thể đứng dưới gác chuông của đền nhìn biển lăn tăn sóng, chiêm ngưỡng khoảnh khắc hoàng hôn buông xuống sẽ cảm thấy bình yên đến lạ. Từ sân đền rẽ về bên phải, du khách sẽ đến với một bãi đá đẹp và dài, bên phải con đường đi ra bãi đá là vách núi với hàng cây xanh mướt. Nguồn haiphongnew.gov.vn

Hải Phòng 2873 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia Mở cửa

Đền Gốm

Đền Gốm thờ phó tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư thuộc thôn Linh Giàng, xã Cổ Thành, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Người dân địa phương vẫn ca câu ca dao quen thuộc về đền Gốm: “Đền thờ Nhân Huệ anh hùng Vân Đồn vang dội giặc Nguyên rụng rời” Theo sách: “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú: Trần Khánh Dư là người thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông là tôn thất nhà Trần nên được phong là Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư. Trần Khánh Dư thân phụ là Thượng tướng Trần Phó Duyệt. Kế thừa truyền thống Hoàng tộc, ngay từ nhỏ Trần Khánh Dư rất say mê sách vở và giỏi binh thư. Ông là người lập nhiều công lao to lớn trong các cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên thế kỷ 13. Năm 1258, cuộc kháng chiến Nguyên Mông lần 1 nổ ra, trong trận quyết chiến chiến lược ở Đông Bộ Đầu, tướng trẻ Trần Khánh Dư bằng mưu trí sáng tạo, đột kích bất ngờ vào trại giặc thu được thắng lợi lớn. Sau trận này, quân Nguyên Mông bị đánh bật khỏi Kinh Thành, phải rút quân về nước. Đầu xuân năm Mậu Ngọ (1258), tại buổi lễ thiết triều đầu xuân mừng công ban thưởng cho các tướng lĩnh, Trần Khánh Dư được vua khen là người có trí lược và phong là Thiên tử nghĩa Nam. Một thời gian sau, do ông phạm tội, bị triều đình cắt chức trở về quê làm nghề chèo đò bán than. Tháng 11 năm 1282, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2, vua trần họp hội nghị Bình Than lấy ý kiến vương hầu, bách quan bàn kế công, thủ đánh giặc. Trong dịp này vua trần tình cờ gặp Trần Khánh Dư chèo thuyền chở than qua bến Nhạn Loan trong cảnh "nón lá, áo tơi". Vua cho mời Trần Khánh Dư tới và phục lại các chức cũ cho cùng dự bàn kế sách giữ nước. Tại hội nghị Bình Than, Trần Khánh Dư tỏ ra là người có mưu lược, hiến nhiều kế sách tác chiến sâu sắc hợp với ý vua. Trần Thái Tông lại phong chức Phó tướng đô quân. Sau khi dẹp tan giặc, ông lại được phong Tước Hầu. Năm 1288, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3, Trần Khánh Dư được Trần Hưng Đạo giao nhiệm vụ quyết chiến trên biển. Tại đây, Trần Khánh Dư đánh thắng trận Vân Đồn tiêu diệt hơn 500 chiến thuyền lương của Trương Văn Hổ. Chiến thắng Vân Đồn làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần quân Nguyên Mông, góp phần quan trọng để cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 3 sớm kết thúc thắng lợi. Trần Khánh Dư không chỉ là người có tài, cầm quân xung trận mà ông còn có khả năng đặc biệt trong việc luyện binh và hiểu thấu đáo binh pháp của Trần Hưng Đạo. Khi Trần Hưng Đạo viết cuốn: “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” để rèn luyện quân sĩ thì chính Trần Khánh Dư là người viết lời tựa về việc sử dụng binh pháp, thể hiện tài thao lược của ông: “Phàm việc dùng binh hễ giỏi thì không cần bầy trận, mà giỏi bày trận thì không cần đánh, giỏi đánh thì không thua, không thua thì không chết”. Với cống hiến to lớn trong suốt ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Trần Khánh Dư là người tướng tài; ông đã được vua Trần phong tước Nhân Huệ Vương. Cuối đời, Trần Khánh Dư về sống hưu trí tại Thái Ấp bên vụng Trần Xá (thuộc Chí Linh, Hải Dương) - nơi giao thông đường thuỷ phát triển, nhân dân địa phương buôn bán và sản suất đồ gốm. Ông thường động viên nhân dân địa phương tích cực sản xuất nên kinh tế địa phương rất phát đạt. Do vậy, tên thôn Linh Giàng còn có tên gọi là làng Gốm. Ngày 15 tháng 8 năm Kỷ Mão, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư qua đời. Ghi nhận công lao của ông, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ tại đầu làng Gốm bên bờ sông Kinh Thầy lấy tên là “Nhân Huệ Vương từ”. Trải qua những năm tháng lịch sử, di tích đền gốm đã nhiều lần được trùng tu tôn tạo lại. Đền được xây dựng thế kỷ 14. Đến thế kỷ 17, 18 thời Lê đền được trùng tu lại, kiến trúc theo kiểu chữ đinh gồm 3 lớp nhà gồm 5 gian đại bái, 5 gian trung từ, 3 gian hậu cung. Cuối thế kỷ 19, thực dân pháp tiến đánh vùng Phả lại, Chí Linh, di tích đền gốm cũng bị chúng đốt dỡ. Năm 1933, nhân dân thập phương công đức đầu tư trùng tu lại toàn bộ ngôi đền. Kết cấu kiến trúc được giữa nguyên như cũ gồm 3 lớp nhà. Riêng nhà đại bái trước 5 gian đã được mở rộng thên hai gian đầu hồi để làm miếu cô. Hàng năm, mỗi độ thu về, từ 13 đến 21 tháng 8 âm lịch nhân dân địa phương tổ chức lễ hội đền Gốm tưởng niệm danh nhân Trần Khánh Dư. Lễ hội đền Gốm diễn ra liên tục 7 ngày đêm. Khách về dự hầu hết là ngư dân ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng… Trong quan niệm tín ngưỡng dân gian cho rằng: Trần Khánh Dư là một tướng thuỷ quân, từng đánh thắng quân Nguyên Mông nhiều trận trên sông, biển nên thường diễn lại một số tích truyện dân gian như: rước nước, bơi chải… cầu mong để người đi biển an toàn và thu được nhiều cá, tôm, sản vật, và may mắn không bị mưa bão... Đây là một nét đẹp văn hoá truyền thống của cư dân Đông Bắc cần được bảo tồn. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Chí Linh

Hải Phòng 3137 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa