Kon Tum là vùng đất mang trong mình những di tích lịch sử sâu sắc, nơi ghi dấu những bước thăng trầm của dân tộc qua các thời kỳ. Mỗi di tích ở đây không chỉ là chứng nhân lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng bất tận về lòng kiên cường và sự hy sinh của người dân nơi đây. Cùng 63Stravel.com khám phá các di tích này nhé!
Dưới đây là những di tích lịch sử tại Kon Tum nổi tiếng du khách có thể đến và khám phá.
Địa chỉ: nằm ở địa bàn xã Đăk La, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum.
Điểm cao 601 từng là chốt quân sự quan trọng trong hệ thống phòng thủ của địch, bảo vệ thị xã Kon Tum và đường 14 huyết mạch. Những trận đánh khốc liệt tại đây, đặc biệt là chiến thắng vào tháng 4/1972, đã góp phần quyết định vào chiến dịch giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh.
Di tích lịch sử cách mạng điểm Cao 601
Ngày nay, Điểm cao 601 được xây dựng thành khu di tích lịch sử, lưu giữ ký ức về một thời kỳ chiến tranh gian khổ nhưng anh hùng. Khu vực “dốc đầu lâu” năm xưa giờ phủ màu xanh của rừng cây non, trở thành biểu tượng của hòa bình và tái sinh. Đây là nơi để thế hệ hôm nay lắng đọng, tri ân và tự hào về sự hy sinh to lớn của cha anh.
Địa chỉ: xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum
Nằm trên đỉnh núi cao 1.086m so với mực nước biển, cột mốc Ngã Ba Đông Dương được hoàn thiện vào năm 2009 và nhanh chóng trở thành điểm nhấn nổi bật trong danh sách các di tích lịch sử tại Kon Tum. Với hình trụ tam giác làm từ đá hoa cương sáng bóng, cột mốc khắc họa quốc huy của ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, tượng trưng cho tình đoàn kết bền chặt.
Check-in Ngã ba Đông Dương
Cột mốc này thuộc khu vực Cửa khẩu Bờ Y, nơi giáp ranh giữa tỉnh Kon Tum của Việt Nam, tỉnh Attapư của Lào và tỉnh Ratanakiri của Campuchia. Được ví von là “nơi gà gáy ba nước cùng nghe”, đây không chỉ là địa điểm check-in yêu thích của du khách mà còn là biểu tượng văn hóa và hòa bình đầy ý nghĩa của khu vực Đông Dương.
Địa chỉ: Ngã ba Đông Dương, tỉnh Kon Tum.
Nằm tại ngã ba Đông Dương, Vườn Quốc Gia Chư Mom Ray thuộc hai huyện Ngọc Hồi và Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Với diện tích 56.000 ha, đây là vùng rừng nguyên sinh xuyên quốc gia rộng lớn, tiếp giáp Lào và Campuchia, tạo nên quần thể thiên nhiên đa dạng và độc đáo.
Vườn quốc gia Chư Mom Ray - Điểm đến hấp dẫn ở Kon Tum
Là một trong những di tích lịch sử tại Kon Tum, Chư Mom Ray không chỉ bảo tồn hệ sinh thái đặc trưng Đông Nam Á mà còn lưu giữ dấu ấn lịch sử. Với 1.534 loài thực vật và 718 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm, nơi đây được công nhận là di sản ASEAN hơn 15 năm trước.
Chư Mom Ray còn hấp dẫn bởi các hành trình khám phá rừng già, đưa du khách đến những địa danh hào hùng như đường Trường Sơn, ngục tù Kon Tum, và sân bay Phượng Hoàng. Đồng thời, bạn sẽ được hòa mình vào đời sống văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số và thưởng thức ẩm thực đậm chất Tây Nguyên.
Nằm ở độ cao hơn 1.200m so với mực nước biển, khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen (huyện Kon Plông) được ví như "Đà Lạt thứ hai" với khí hậu mát mẻ quanh năm và cảnh quan tuyệt mỹ. Vùng đất này là sự hòa quyện giữa thiên nhiên hoang sơ và nét thanh bình hiếm có, với rừng thông xanh ngút ngàn, những thác nước mềm mại như dải lụa, cùng không khí trong lành, tinh khiết.
Di tích lịch sử và danh thắng Măng Đen
Di tích lịch sử và danh thắng Măng Đen là điểm khởi đầu của tuyến du lịch "Con đường xanh Tây Nguyên", Măng Đen kết nối cùng "Con đường di sản miền Trung" và "Con đường huyền thoại Hồ Chí Minh", tạo nên một tuyến hành trình xuyên quốc gia độc đáo. Tại đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp nguyên sơ của đại ngàn Tây Nguyên, với những dòng suối trong vắt, thác nước êm đềm như Pa Sỹ, Đắk Ke, Lô Ba và các hồ thơ mộng như Toong Zơri, Toong Pô, Toong Đam.
Không chỉ nổi bật với du lịch sinh thái, Măng Đen còn lưu giữ nét văn hóa đậm đà qua các làng cổ như Kon K’tu, Kon Du, Kon Skoi hay Kon Pring. Những ngôi làng này vẫn bảo tồn nguyên vẹn lối sống truyền thống và kiến trúc độc đáo của các dân tộc thiểu số.
<< Tham khảo: Đi du lịch tại Kon Tum thì mua gì về làm quà?
Địa chỉ: thuộc làng Kon Hơ ring, xã Diên Bình, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum.
Khu chứng tích Nhà thờ Kon Hrinh là minh chứng đau thương về tội ác của đế quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Vào đêm 25/5/1972, nơi đây đã hứng chịu trận oanh tạc khốc liệt, khiến 500 người dân vô tội thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương. Để tưởng nhớ những nạn nhân và ghi lại tội ác của kẻ thù, tỉnh Kon Tum đã xây dựng công trình chứng tích này, bao gồm bia tưởng niệm, khuôn viên cây xanh và nhiều hạng mục khác.
Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, Nhà thờ Kon Hơ Ring còn là một công trình kiến trúc tôn giáo độc đáo, nổi bật với thiết kế mang đậm bản sắc của dân tộc K’ho. Được xây dựng vào năm 1959, nhà thờ gây ấn tượng bởi mái tre, lá dừa mộc mạc nhưng tinh tế và những bức tranh, tượng thánh chạm khắc trên gỗ đầy nghệ thuật. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo mà còn là địa điểm kết nối cộng đồng người K’ho, phản ánh đậm nét đời sống văn hóa và tinh thần của họ.
Địa chỉ: Tổ Đình Bác Ái, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.
Tọa lạc trên một ngọn đồi xanh mát từng là khu rừng hoang sơ, chùa Bác Ái mang trong mình vẻ đẹp trang nghiêm, cổ kính cùng câu chuyện lịch sử đáng nhớ. Được xây dựng từ năm 1983 theo hệ phái Bắc tông, chùa là thành quả của sự nỗ lực khai phá vùng đất này dưới sự dẫn dắt của Huấn đạo tỉnh Kon Tum, ông Võ Chuẩn. Công trình được thiết kế theo lối kiến trúc chữ "Môn", tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên và tín ngưỡng tâm linh.
Chùa Bác Ái - ngôi chùa cổ lâu đời nhất của Kon Tum
Khi bước chân qua cổng Tam quan uy nghi, du khách sẽ cảm nhận ngay sự thanh tịnh mà khuôn viên chùa mang lại. Đi sâu vào bên trong là khu vực Chánh điện – trái tim của chùa, nơi được bài trí công phu với ba gian hai trái, gồm Tiền đường, Trung điện và Thượng điện.
Chánh điện thờ các vị Phật như Hoa Nghiêm Tam Thánh, Tam Thế Phật và Di Đà Tam Hôn. Các chi tiết kiến trúc như cột, kèo làm từ gỗ quý – trắc, cà chít, tía – được chạm khắc tinh xảo bởi bàn tay nghệ nhân xứ Huế, mang lại vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo và giá trị lịch sử khó sánh bằng.
Ngoài Chánh điện, khu vực xung quanh chùa Bác Ái còn lưu giữ các bia, mộ, tháp, miếu thờ Đoàn Quán, Sơn Thần và thần hoàng Bổn Cảnh. Một số hiện vật quý hiếm như tượng Quan Thế Âm, tượng Tam Tòa Thánh Mẫu, cùng các tác phẩm nghệ thuật như câu đối, bửu ấn vẫn được bảo tồn, góp phần tái hiện rõ nét dấu ấn thời gian.
Hệ thống tượng thờ tại chùa Bác Ái được chế tác bằng đồng sáng bóng, giữ nguyên vẻ đẹp trường tồn với thời gian. Dù một số chi tiết như rồng chầu hay dây cuốn bị mất đi trong quá trình trùng tu, chùa vẫn giữ nguyên vẻ trang nghiêm và nét hoài cổ đặc trưng. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng mà còn là điểm đến hấp dẫn dành cho những ai yêu thích khám phá văn hóa, lịch sử và kiến trúc của vùng đất Kon Tum.
Địa chỉ: xã Đắk Xú, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
Nằm trên sườn đông dãy Trường Sơn, thuộc huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, di tích chiến thắng Plei Kần là điểm giao thoa lịch sử và địa lý đặc biệt. Đây chính là nơi ngã ba biên giới giữa Việt Nam, Lào, và Campuchia, với hệ thống giao thông huyết mạch kết nối Đông Dương. Quốc lộ 14C huyền thoại khởi nguồn từ rừng quốc gia Chư Mom Ray, trong khi quốc lộ 40 xuyên qua cửa khẩu Bờ Y mở ra cánh cửa giao thương và chiến lược khu vực.
Theo tiếng Xê Đăng, Plei Kần nghĩa là "làng lớn," từng là nơi chung sống hòa thuận của các dân tộc Xê Đăng, Brâu, HLăng, và Kdong. Tuy nhiên, trong chiến tranh, Mỹ đã biến Plei Kần thành một cụm cứ điểm kiên cố để ngăn chặn các lực lượng cách mạng, tận dụng địa hình đồi núi, đầm lầy để xây dựng hệ thống hầm ngầm, lô cốt và sân bay dã chiến.
Cuộc chiến tại cứ điểm Plei Kần đỉnh điểm vào tháng 10/1972, khi sư đoàn 10 cùng các lực lượng đặc công và pháo binh của ta tổ chức trận đánh quyết liệt. Sau hơn hai ngày đêm chiến đấu, quân ta đã làm chủ hoàn toàn cứ điểm, tiêu diệt hơn 400 tên địch, bắt sống 65 tên, thu giữ nhiều vũ khí và khí tài quan trọng. Chiến thắng Plei Kần đã khai thông hành lang biên giới, củng cố con đường Hồ Chí Minh huyền thoại, góp phần quan trọng vào đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
<< Tham khảo: Bật mí 10 website đặt phòng khách sạn online uy tín
Địa chỉ: Địa chỉ: Xã Đắk Choong, huyện Đắk Glei, Kon Tum.
Ngục Đắk Glei (hay còn gọi là ngục Tố Hữu) gắn liền với câu chuyện vượt ngục ngoạn mục của nhà cách mạng, nhà thơ nổi tiếng Tố Hữu cùng đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ vào đầu năm 1942. Sau sự kiện này, thực dân Pháp đã tăng cường khủng bố và đưa thêm nhiều chiến sĩ cộng sản vào giam giữ tại đây.
Ngục Đắk Glei - Chứng tích về tinh thần quật cường của những chiến sĩ cộng sản
Nằm trên tuyến quốc lộ 14, ở độ cao 1.800m trên đồi Chang T'né, ngục Đắk Glei được bao bọc bởi thung lũng và núi non hiểm trở, tạo thành một hệ thống giam giữ kiên cố gồm khu đồn canh, căng an trí và ngục biệt giam. Công trình chính có diện tích 200m² với 4 phòng giam, nơi từng chứng kiến những ngày tháng gian khổ nhưng đầy kiên cường của các chiến sĩ cách mạng. Dưới sườn đồi là ngục biệt giam nhỏ hẹp, u tối, nơi kẻ thù ra sức tra tấn nhưng không thể khuất phục ý chí của những người con yêu nước.
Ngày nay, con đường bê tông mới đã giúp việc di chuyển đến đây thuận tiện hơn, chỉ mất khoảng 30 phút. Thăm ngục Đắk Glei, bạn không chỉ cảm nhận sự hào hùng của lịch sử mà còn tự hào về tinh thần bất khuất của các chiến sĩ cộng sản, để thêm trân trọng những giá trị thiêng liêng của dân tộc. Hãy dành thời gian khám phá di tích này khi đến Kon Tum, một điểm đến không thể bỏ qua.
Địa chỉ: Phía bắc sông Đắk Bla, trên đường Trương Quang Trọng, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum.
Ngục Kon Tum (hay còn gọi là Lao trong) từng là nơi diễn ra các cuộc biểu tình đầy quả cảm của các chiến sĩ cộng sản nhằm phản đối chính sách vô nhân đạo của thực dân Pháp. Tháng 12/1935, trước sức ép từ các phong trào đấu tranh, nhà ngục buộc phải đóng cửa, trở thành một biểu tượng cho ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất.
Trong giai đoạn 1930-1931, nơi đây được mệnh danh là "lò giết người tàn bạo" khi hàng trăm tù binh chính trị bị cưỡng ép lao động khổ sai, mở đường 14. Dẫu vậy, sự hy sinh của họ đã tô thắm thêm trang sử hào hùng, để lại một di sản tinh thần đáng tự hào.
Hiện nay, ngục Kon Tum đã được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia, thu hút hàng trăm ngàn lượt khách mỗi năm đến tham quan và tưởng nhớ. Tại đây, bạn sẽ cảm nhận rõ nét giá trị lịch sử, từ những câu chuyện đấu tranh oanh liệt đến không gian kiến trúc cổ kính, nơi lưu giữ hơn 500 tư liệu và hiện vật quý giá. Đừng quên kết thúc chuyến đi bằng việc tận hưởng khung cảnh núi Chư Hreng hùng vĩ, để lòng thêm tự hào về đất nước.
Địa chỉ: huyện Đắk tô, tỉnh Kon Tum.
Khu di tích chiến thắng Đắk Tô nằm trên đồi cao 600m, là một trong những di tích lịch sử quan trọng của Tây Nguyên. Nơi đây từng là chiến trường ác liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nơi diễn ra các trận chiến quyết liệt, đặc biệt là vào tháng 4 năm 1972 khi đây là căn cứ quân sự mạnh nhất của Mỹ và quân Ngụy.
Khu di tích chiến thắng Đắk Tô - nơi ghi dấu chiến công oanh liệt hào hùng tại Kon Tum
Được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2016, khu di tích không chỉ ghi dấu chiến công oanh liệt của quân và dân ta mà còn là minh chứng cho tinh thần đoàn kết, kiên cường của dân tộc. Đến thăm Đắk Tô, bạn sẽ cảm nhận rõ nét giá trị lịch sử qua những đài tưởng niệm, bia tưởng niệm và di tích sân bay Phượng Hoàng, một di tích nổi tiếng được Mỹ xây dựng.
Đắk Tô còn là vùng đất lưu giữ giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên, với những lễ hội truyền thống, nhà Rông và nghệ thuật dân gian. Khu di tích chiến thắng Đắk Tô là điểm đến lý tưởng để tìm hiểu lịch sử, văn hóa và vẻ đẹp thiên nhiên Tây Nguyên.
Kết thúc chuyến tham quan, các di tích lịch sử tại Kon Tum không chỉ để lại trong lòng du khách những ấn tượng sâu sắc về quá khứ hào hùng, mà còn là nguồn cảm hứng để thế hệ trẻ hiểu và trân trọng những giá trị lịch sử, văn hóa quý báu. Mong rằng, mọi người sẽ có một chuyến khám phá tại vùng đất này thú vị nhất!
Quảng Ngãi 4337 lượt xem
Ngày cập nhật : 09/12/2024
Với hai mùa mưa, nắng rõ rệt, thời điểm đẹp nhất để du lịch Lý Sơn là từ tháng 4 đến tháng 8. Vào khoảng thời gian này thời tiết ổn định, trời ít mưa và có nắng. Song bạn nên tránh đi vào mùa cao điểm từ tháng 4 đến tháng 6, để không phải chịu cảnh đông đúc. Tháng 9 đến tháng 12 là mùa mưa, bão và biển động. Từ cuối tháng 12 đến tháng 4 là mùa rêu xanh phủ khắp những bãi đá ven biển Lý Sơn. Lưu ý, bạn cần theo dõi thời tiết trước khi khởi hành để tránh tình trạng kẹt lại trên đảo từ vài ngày vì biển động, gió mùa... Phương tiện di chuyển chính là tàu thủy từ cảng Sa Kỳ. Ở đây có nhiều hãng tàu cao tốc đưa du khách tới đảo Lý Sơn với giá vé khoảng 300.000 - 340.000 đồng (khứ hồi). Bạn nhớ mang theo chứng minh nhân dân hoặc bằng lái xe để mua vé. Thời gian di chuyển từ cảng đến đảo khoảng 35 phút. Từ Hà Nội, TP HCM, du khách đặt vé máy bay tới sân bay Chu Lai với giá vé một chiều khoảng 1.200.000 đồng, thời gian bay 1 tiếng 30 phút. Sân bay cách cảng Sa Kỳ khoảng 42 km, bạn có thể di chuyển bằng taxi, giá một chiều khoảng 350.000 đồng hoặc đi xe bus dừng chặng tại TP Quảng Ngãi để tiết kiệm chi phí. Ngoài ra, du khách có lựa chọn là bay tới Đà Nẵng, từ đây đi taxi hoặc tàu hỏa đến TP Quảng Ngãi, giá vé tàu 180.000 khứ hồi. Cảng cách trung tâm thành phố 20 km. Lý Sơn có nhiều nhà nghỉ, khách sạn, homestay, trung bình từ 200.000 - 400.000 đồng một đêm. Với du khách thích nơi nghỉ có phong cách trẻ trung, nên chọn homestay Bep's House, Bé Ecolodge hoặc nhà nghỉ DHT Hang Câu. Ngoài ra, du khách có thể tham khảo khu nghỉ dưỡng Lý Sơn Pearl Hotel & Resort có view biển. Du khách có thể trải nghiệm ở một đêm tại đảo Bé. Các homestay gợi ý là Ly Son Bungalow với những nhà gỗ nhiều màu sắc, XaLaBin với các phòng ở trên cao có view biển hoặc Gió Biển. Đến Lý Sơn, Du khách có thể thuê xe điện 300.000 đồng một lượt để khám phá vòng quanh đảo. Ngoài ra có thể thuê xe máy, giá 150.000 đồng một ngày để tham quan các địa điểm như: Đỉnh Thới Lới, Cánh đồng tỏi, Hang Câu, Cổng Tò Vò, Chùa Hang, Chùa Đục,... và nhiều địa điểm nổi tiếng khác. Về ẩm thực tại Lý Sơn, Các quán ăn tập trung ở dọc cảng, một số quán gợi ý là quán Phát Hải, quán Khói Chiều... Ngoài ra còn có cơm hải sản Đại Hằng, quán Út Ngọc. Đặc sản Lý Sơn chủ yếu là hải sản, đặc biệt là cua huỳnh đế, tôm hùm, ốc cừ, cá tà ma, chả cá... Một số đặc sản khác là gỏi tỏi, nộm rong biển, bún riêu cua, dưa hấu hắc mỹ nhân, ốc tượng, bánh ít lá gai... Hãy ghé các quầy đồ khô trên đảo để mua tỏi, hải sản khô về làm quà.
Quảng Ngãi
Từ tháng 12 đến tháng 4
3661 lượt xem
Thác Trắng nằm tại địa bàn xã Thạch An, huyện Minh Long và cách trung tâm Thành Phố Quảng Ngãi khoảng 23 km về phía Tây Nam. Thác ẩn mình trong dãy núi Trường Sơn lịch sử và mới được người dân khám phá. Đây là một điểm đến lý tưởng những người muốn nghỉ ngơi, thư giãn vào cuối tuần và là một địa điểm ưa thích của giới Phượt hiện nay. Để đi tới Thác Trắng, từ trung tâm thành phố Quảng Ngãi, các bạn đi về hướng tây nam đến thị trấn chợ Chùa, huyện Nghĩa Hành. Sau đó sẽ có một con đèo nhỏ, bạn đi men theo đường đấy thì sẽ đến huyện Minh Long và đi tiếp tầm 5 km nữa thì sẽ đến thác Trắng. Đường đi lên thác hiện được xây dựng lại rất đẹp, con đường cũng khá dốc nên đem lại cảm giác thú vị cho dân phượt. Để đi đến đây, một lời khuyên cho các bạn là nên vừa đi vừa hỏi đường người dân địa phương vì đi theo google map sẽ không chính xác. Nếu không muốn đi xe máy thì các bạn có thể đi ô tô hoặc bắt xe buýt tuyến Quảng Ngãi – Minh Long với chỉ 16.000đ/lượt, đến huyện Minh Long thì các bạn có thể bắt xe ôm lên thác, hoặc thuê những chiếc xe máy với giá chỉ 80.000đ-120.000đ/ngày. Thác Trắng cao khoảng 40 m, những dòng nước ngày đêm tuôn trào xuống 2 hồ nước ở dưới. Xung quanh thác được bao bọc bởi một màu xanh của đồi núi trập trùng, tạo nên một khung cảnh hết sức nên thơ, trữ tình. Thác được chia làm 3 nhánh, trong đó nhánh ngoài cùng bên trái là nhánh chính (đây là nơi nước chảy nhiều nhất, dữ dội nhất), còn lại là 2 nhánh phụ bên phải chảy ít nước hơn. Ở dưới chân thác có 2 cái hồ lớn, nước ở đây rất trong và xanh, làn nước mát mẻ rất thích hợp để mọi người có thể hòa mình vào dòng nước sảng khoái để xua tan đi những cái oi bức của thành phố. Không chỉ vậy, hồ này còn là nơi sinh sống của loài cá niên, nên các bạn có thể đem theo những chiếc cần câu và thưởng thức món ăn thơm ngon, độc đáo này ngay trên bờ. Dòng nước chảy mạnh nhẹ tùy vào từng mùa, để chiêm ngưỡng dòng nước chảy mạnh nhất thì bạn nên đến đây vào mùa mưa, khi ấy lưu lượng nước từ trên đổ về rất nhiều, khiến dòng nước rất mạnh tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp. Còn nếu bạn thích sự yên bình, mộc mạc của thác Trắng thì bạn hãy đi vào mùa khô, khi ấy những dòng nước lại chảy rất nhẹ nhàng, êm ả. Đến với thác Trắng, không chỉ được tắm thỏa thích dưới dòng nước mát mẻ, chụp ảnh checkin những bức hình tuyệt vời, mà các bạn còn có thể được cắm trại, picnic, tổ chức những trò chơi theo nhóm, đốt lửa trại và rất nhiều điều thú vị khác. Thác đã được đưa vào khai thác thành một khu du lịch nên các bạn có thể yên tầm về việc ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí. Bên cạnh thác có một bãi đất trống, đấy là nơi rất thích hợp cho việc cắm trại qua đêm, hát hò nhảy múa, thưởng thức những món BBQ ngoài trời. Xung quanh thác còn có một địa điểm hợp với những bạn trẻ yêu thích thiên nhiên và muốn khám phá đó là khu rừng nguyên sinh, các bản làng của đồng bào Hrê. Nếu được thì bạn cũng có thể xin phép ban quản lý khu rừng để cắm trại, vui chơi tại đây. Bỏ lại sau lưng những không khí ngột ngạt của thành phố, những trưa hè nóng bức, bạn hãy thử cảm giác đến đây một lần, sẽ hưởng thụ những không khí mát lành nơi đây bạn sẽ thấy thực sự thoải mái và không muốn rời khỏi nơi đây một chút nào.
Quảng Ngãi
Từ tháng 1 đến tháng 12
3680 lượt xem
Khoác lên mình vẻ đẹp bất tận qua thời gian, đồng muối Sa Huỳnh là nơi cho du khách ngắm nhìn cánh đồng muối trải dài, sắc màu trắng xóa tuyệt đẹp và cảm nhận tinh hoa của làng nghề dân gian tại đây. Nằm trong xã Phổ Thạch, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, đây không chỉ là cánh đồng muối với hơn 100 năm lịch sử, mà còn là tượng trưng cho sự gắn kết với di sản và văn hóa của vùng đất này. Với hơn 600 hộ dân và sản lượng muối hàng năm từ 8000 đến 9000 tấn, đồng muối Sa Huỳnh không chỉ là nguồn cung cấp muối quan trọng mà còn thể hiện tinh thần làng nghề truyền thống, hoà quyện với những ngôi làng nghề nổi tiếng khác như Hòn Khói và Cà Ná nằm dải dọc miền Trung. Kể từ thế kỷ 19, đồng muối Sa Huỳnh đã chứng kiến hơn 100 năm sự gìn giữ truyền thống. Tuy nhiên, không phải lúc nào nghề làm muối ở Sa Huỳnh cũng được biết đến như một cảnh quan tươi đẹp. Xưa kia, nơi đây đã trải qua nhiều thăng trầm, từ “làng muối đắng” khi công sức đổ vào không đạt được kết quả, cho đến việc giá trị muối không đáng kỳ vọng và thiếu thương hiệu địa phương. Nhưng từ ngày Cục sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận “Muối Sa Huỳnh” vào năm 2011 thì mọi thứ đã thay đổi. Những người làm muối không ngần ngại đầu tư, áp dụng mô hình sản xuất mới, với cách làm muối Sa Huỳnh trên nền lót bạt hoặc nền xi măng. Kết quả đã thể hiện sự nâng cao chất lượng, với lượng tạp chất cát giảm tới 95%, sản lượng tăng đáng kể và giá trị muối tăng từ 20 – 30%. Điều đặc biệt, cách làm mới này giúp rút ngắn thời gian sản xuất, thay đổi cảnh quan đồng muối. Để thực hiện điều này, 6 tuyến đê bao với tổng chiều dài hơn 5km đã được xây dựng, mở đường cho sự phát triển và cải tiến của đồng muối. Điều này chứng tỏ lòng hăng hái và ý chí tiến bộ của người làm muối Sa Huỳnh, khi họ không ngừng học hỏi và chia sẻ kiến thức, xây dựng một tương lai tươi sáng cho hạt muối Sa Huỳnh. Với hơn 120 ha diện tích, đồng muối Sa Huỳnh như một tấm thảm rực rỡ, từng ô ruộng nhỏ xen lẫn nhau, thấu hiểu sự tương tác tinh tế giữa ánh nắng và nước biển. Nền bê tông và giấy bạc tạo nên bức phản chiếu màu sắc độc đáo, biến cảnh đẹp này thành một lĩnh vực lấp lánh như kim cương và hút mắt mọi ánh nhìn. Những đụn muối trắng ngần trải đều trên ruộng, như những hiện thân của thiên nhiên núi rừng. Khi nắng vàng lấp lánh kết hợp với gánh tre của người nông dân, bức tranh hòa quyện giữa sắc vàng và trắng tạo nên một khung cảnh đẹp đến đắm say, hòa quyện bình dị và quyến rũ, như một bức chân dung đầy huyền bí. Khi bạn bước vào đồng muối, đây không chỉ là điểm du lịch Quảng Ngãi nổi tiếng, mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tự nhiên đầy thú vị từ bàn tay của những người nông dân. Ngay từ lúc 5 giờ sáng, những cô cậu nông dân địa phương đã tụ họp để bắt đầu một ngày làm việc đầy nhiệt huyết. Họ sắp xếp nước biển từ kênh và mương vào bọng nước, sau đó rắc muối mồi và chờ đợi ánh nắng mặt trời để muối kết tinh. Việc làm muối ở Sa Huỳnh cần phơi qua 3 nắng để đạt được hạt muối trắng ngần và to. Đây là một quy trình công phu, thực hiện dưới nắng gắt, để tạo nên chất lượng muối độc đáo và ngon lành. Ngoài trải nghiệm làm muối, bạn còn có cơ hội thấy những chiếc xe máy tự chế độc đáo tại đây. Những chiếc xe này, dù cũ kỹ, đã được biến đổi để chở muối thay vì dùng gánh. Điều này đã cải thiện cuộc sống của người dân và tạo ra cảm giác thú vị. Nếu bạn có cơ hội, hãy mua sắm và ủng hộ những hạt muối tinh khiết này, để thấy sự công phu và yêu thương mà người dân đặt vào từng hạt muối.
Quảng Ngãi
Tháng 3 đến tháng 8
3640 lượt xem
Nhắc đến Quảng Ngãi, chắc chắn các tín đồ ưa dịch chuyển sẽ nghĩ ngay tới huyện đảo Lý Sơn. Thế nhưng ở xứ Quảng còn một vùng đất hoang sơ khác được ví như “Đảo Lý Sơn trong đất liền” đang chờ đợi du khách tới khám phá. Mũi Ba Làng An nằm tại xã Bình Châu, huyện Bình Sơn. Sở dĩ có tên gọi như vậy là vì đây là cách gom chung tên ba ngôi lành liền kề nhau gồm Vân An, An Chuẩn và An Hải. Tại nơi đây du khách sẽ được tận hưởng cuộc sống vô cùng bình yên của biển đảo miền Trung. Nhân dân Mũi Ba Làng An cũng chính là những người đã khai hoang nên đảo Lý Sơn, và trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu vệ chủ quyền biển đảo Hoàng Sa. Trong thời Pháp thuộc, nơi đây còn được gọi là Ba tang gân. Đây không chỉ là địa điểm nghỉ dưỡng mà còn nổi tiếng với bề dày lịch sử, luôn là niềm tự hào của người dân Quảng Ngãi. Hiện nay, Mũi Ba Làng An đã được mở rộng thêm diện tích diện tích và chỉ cách đảo Cù Lao Ré khoảng 22km về hướng Tây nam. Đây là mũi đất giúp tạo nên dáng hình bờ biển ở nước ta, chắc chắn sẽ là điểm đến thu hút khách du lịch. Mũi biển này được cấu tạo bởi những vách đá trầm tích của núi lửa cùng với dòng biển xanh màu ngọc bích trong. Nhìn từ trên cao có thể thấy vẻ đẹp vô cùng huyền ảo và quyến rũ. Gần mũi Ba Làng An còn có một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động rộng khoảng 30m2. Bên trong miệng núi lửa có khá nhiều rong biển mọc lên, bên ngoài được phủ một lớp san hô dày đặc với nhiều sắc màu rực rỡ. Tất cả những điểm này được hòa quyện vào nhau, tạo nên cảnh đẹp hoang sơ độc đáo hiếm có thể tìm thấy tại nơi nào ở Quảng Ngãi. Đến thăm mũi Ba Làng An, du khách sẽ có cơ hội được trải nghiệm rất nhiều điều thu vị như được đi dọc bờ biển ngắm cảnh cũng như chụp ảnh. Ngoài ra, bạn nhất định phải ghé thăm ngọn hải đăng Ba Làng An. Chỉ cần dành ra khoảng 30 phút lên ngọn hải đăng là du khách sẽ có cơ hội được ngắm nhìn toàn cảnh hùng vĩ của mũi biển. Sau khi đã thỏa thích tạo dáng, chụp nhiều ảnh đẹp du khách có thể tiếp tục chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp. Nếu bạn là người yêu biển cả và ưa thích những trải nghiệm, muốn được chạm chân cảm nhận làn nước biển mát rượi hay được thử chạm vào những khối đá nhấp nhô bên dưới bãi biển, bạn có thể di chuyển xuốngmũi Ba Làng An. Chắc chắn đây sẽ là trải nghiệm ấn tượng trong chuyến du lịch khám phá Quảng Ngãi. Đặc biệt, khi đến thăm mũi Ba Làng An, du khách sẽ có cơ hội được tận hưởng và hít thở nhịp sống bình dị của ngư dân trên những chiếc thuyền, chiếc thúng đang ra ra khơi. Những chiếc thuyền neo đậu trên bờ sẽ là khoảnh khắc dung dị đến khó tả mà bạn sẽ không thể bắt gặp ở thành thị. Tuy nhiên, nơi đây vẫn chưa thực sự được đầu tư phát triển mạnh về du lịch. Do đó, du khách có thể sẽ phải di chuyển xa hơn để tìm được khách sạn hay homestay lý tưởng để lưu trú. Đến đây, du khách có thể đi về trong ngày vì đường đi khá thuận lợi và không quá xa trung tâm. Nếu muốn ở lại qua đêm tại mũi biển, du khách có thể hỏi xin ngủ tại tại gia đình người dân địa phương. Bên cạnh đó, du khách nên chuẩn bị trang phục thoải mái khi đến du lịch tại Quảng Ngãi để có thể hoạt động dễ dàng. Đồng thời không thể thiếu kem chống nắng, cũng như áo khoác, và kính râm,… Đây đều là những phụ kiện quan trọng vì thời tiết ở đây khá nắng nóng. Thời điểm đẹp nhất mà du khách không nên bỏ lỡ để đến với mũi Ba Làng An là từ tháng 5 tới tháng 8. Đây là thời điểm trời có nắng đẹp và sóng êm. Chính vì không phải mùa mưa nên rất thích hợp để tắm biển và ngắm cảnh núi non tuyệt đẹp. Tuy nhiên, đây cũng là mùa cao điểm du lịch biển tại Quảng Ngãi. Do đó mức giá dịch vụ có thể tăng cao hơn so với thời điểm khác trong năm. Bạn nên tránh du lịch mũi Ba vào khoảng từ tháng 9 tới tháng 2 năm sau. Đây là mùa mưa tại Quảng Ngãi, ngoài những ngày mưa kéo dài là bão lớn khiến sóng biển đánh mạnh sẽ là yếu tố gây ảnh hưởng tới chất lượng chuyến đi của bạn.
Quảng Ngãi
Từ tháng 5 đến tháng 8
3512 lượt xem
Đèo Vi Ô Lắc - một điểm đến huyền bí trên tuyến quốc lộ 24 nối liền Kon Tum (trái tim của Tây Nguyên) với bờ biển tỉnh Quảng Ngãi. Đèo này bắt đầu từ ngã tư Thạch Trụ, xã Đức Lân, Quảng Ngãi và kết thúc tại thành phố Kon Tum với tổng chiều dài khoảng 50km. Đỉnh đèo cao 1.300m so với mực nước biển, không chỉ được xem là biểu tượng của ranh giới giữa Quảng Ngãi và Kon Tum mà còn là điểm phân chia thời tiết giữa Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn. Theo lịch sử, tên gốc của đèo là "Vi Ho Lak", nhưng việc truyền miệng qua thời gian nên dần dà người dân cũng quen gọi thành đèo Vi Ô Lắc. Một số giả thuyết cho rằng tên gọi này xuất phát từ loài hoa Violet, tuy nhiên, ở đây người ta chỉ thấy một loài hoa dại duy nhất trên đèo là xuyến chi mà thôi. Có thể nói, đèo Vi Ô Lắc với vẻ đẹp tự nhiên và phong cảnh hùng vĩ đã trở thành một điểm du lịch phải thăm khi bạn du lịch Quảng Ngãi. Đèo Vi Ô Lắc nằm giữa trái tim của những dãy núi hùng vĩ là một điểm đến mê hoặc lòng người bởi vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và độc đáo. Dù nằm giữa lưng chừng núi nhưng bên cạnh con đường mòn quanh co là những hàng cây cổ thụ xanh mướt và cao vun vút. Điều này đã tạo nên một bức bình phong tự nhiên tuyệt đẹp, giúp không gian của đoạn đèo này trở nên thoáng mát và lộng gió. Khi đứng giữa đèo với độ cao 900m so với mực nước biển, chỉ cần một ánh nhìn xa xăm, bạn sẽ nhanh chóng bị cuốn hút bởi một bức tranh thiên nhiên rộng lớn: những dãy núi xanh ngút ngàn, dòng sông Re hiền hòa uốn lượn giữa những thảm xanh và đặc biệt vào mùa lúa chín là những thửa ruộng bậc thang vàng óng nằm san sát bên những ngôi nhà sàn. Tất cả những cảnh quan tươi đẹp ấy đã tạo nên một khung cảnh đèo Vi Ô Lắc thơ mộng, dễ thương đến lạ lùng. Mỗi bước chân đi lên, mỗi khúc cua vượt qua, đảm bảo bạn sẽ cảm nhận rõ sự thay đổi của không gian và khí hậu. Đặc biệt, khi đến đỉnh đèo vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối, biển mây trắng bồng bềnh, mịt mờ sẽ xuất hiện che phủ toàn bộ tầm nhìn, tạo nên một cảnh vật huyền bí và thần tiên. Đứng trước vẻ đẹp ấy, mọi lo âu lẫn mệt mỏi đều tan biến chỉ còn lại tâm hồn bay bổng và nhẹ nhàng giữa thiên nhiên bao la rộng lớn. Đèo Vi Ô Lắc có thể được xem như là một bức tranh thiên nhiên sống động, một tác phẩm nghệ thuật của tạo hóa, nơi mỗi khoảnh khắc trải qua tại đây đều ẩn chứa những điều kỳ diệu và đáng nhớ. Đèo Vi Ô Lắc với độ cao và độ hiểm trở của mình luôn là một thách thức cho những ai muốn chinh phục. Đặc biệt, khi một bên là vách núi hùng vĩ và một bên là vực thẳm cùng với những khúc cua hiểm hóc, việc lựa chọn thời điểm phù hợp để khám phá đèo là vô cùng quan trọng. Tháng 6 âm lịch mỗi năm khi trời bắt đầu quang đãng và những tia nắng vàng trở nên rực rỡ hơn mới chính là thời điểm lý tưởng nhất để bạn chinh phục đèo Vi Ô Lắc. Lúc này, bạn sẽ được trải nghiệm một bầu trời xanh trong, nắng ấm áp và đồng thời chiêm ngưỡng những đám mây bồng bềnh ở phía xa. Mùa lúa chín tại đèo Vi Ô Lắc cũng là một trải nghiệm không thể bỏ lỡ. Những thửa ruộng bậc thang vàng óng ánh dưới nắng xen lẫn với những ngôi nhà sàn giữa khói bếp mờ ảo, tạo nên một bức tranh thiên nhiên hết sức đẹp đẽ và yên bình.
Quảng Ngãi
Tháng 7
3574 lượt xem
Khu lưu niệm Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Nơi có rất nhiều đoàn khách cao cấp của Đảng và nhà nước, của tỉnh Quảng Ngãi và Nhân dân cả nước, bạn bè quốc tế đến tưởng niệm và tìm hiểu về Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Thủ tướng Phạm Văn Đồng sinh ra nơi làng Thi Phổ Nhất. Từ những năm 1925, ông đã tham gia phong trào sinh viên học sinh tranh đấu đòi Pháp thả cụ Phan Bội Châu, và để tang Phan Châu Trinh. Năm 1926, ông tham gia khóa huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và được kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Rồi cũng từ đó, người thanh niên Phạm Văn Đồng dấn thân trên con đường cách mạng. Cách mạng tháng 8 thành công, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông là đại diện của Trung ương Đảng và Chính Phủ tại miền Nam Trung Bộ. Năm 1949, ông được cử làm phó Thủ tướng Chính Phủ và từ tháng 9.1954 còn kiêm nhiệm Bộ trưởng ngoại giao, Trưởng Ban đối ngoại Trung ương. Rồi từ tháng 9.1955 đến tháng 12.1986, ông giữ chức Thủ tướng Chính Phủ. Du khách đến tham quan thường dừng lại khá lâu nơi những hiện vật sinh hoạt thường ngày của cố Thủ tướng. Một chiếc xe đạp. Một va ly. Hộp cà mèn đựng cơm. Ông Nguyễn Tấn Vạn, Nguyên Phó Chủ tịch HĐND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi chia sẻ suy nghĩ: Tui nhiều lần thăm khu lưu niệm, dừng lại lâu ở chiếc xe đạp và chiếc cà mèn cơm có 4 hộp đựng đồ ăn khi đi công tác mà xúc động về sự giản dị của Bác. Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn hòa mình với dân, gắn bó với dân, cùng gánh vác, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi qua những giai đoạn lịch sử vô cùng khó khăn. Ở cương vị, trọng trách nào, Thủ tướng cũng đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Những năm kháng chiến chống Pháp, với tư cách là đại diện Trung ương Đảng và Chính Phủ, Phạm Văn Đồng đã cùng với chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Duy Trinh chỉ đạo đánh Pháp giữ vững vùng tự do Liên Khu 5. Đặc biệt, người vô cùng sắc sảo trong công tác đối ngoại, là trưởng phái đoàn của Chính Phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Fontainebleau ở Pháp năm 1946, Trưởng đoàn đại biểu dự hội nghị Genève năm 1954. Mặc dù, bận rộn với việc nước, việc dân, nhưng Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn quan tâm đến thế hệ trẻ, đến sự nghiệp giáo dục của đất nước. Giáo dục và trân trọng thế hệ tương lai của đất nước, của dân tộc. Trong suốt 75 năm hoạt động cách mạng, 41 năm là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 35 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, 32 năm làm Thủ tướng Chính phủ, 10 năm là Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhiều cống hiến to lớn. Cuộc đời của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là cuộc đời dấn thân cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Kỉ niệm 115 năm ngày sinh của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là thêm một lần tưởng nhớ và tri ân công lao của vị Thủ tướng luôn sống giữa lòng dân. Nguồn: Trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 4800 lượt xem
Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ nổ ra ngày 11/3/1945 với 278 đội viên du kích, sau 2 ngày Nhật đảo chính Pháp ở Việt Nam, lập nên chính quyền mới ở huyện Ba Tơ và tỉnh Quảng Ngãi. Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ gắn liền với Đội du kích Ba Tơ, là tổ chức vũ trang đầu tiên của nhân dân tỉnh Quảng Ngãi được Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp tổ chức, huấn luyện và lãnh đạo. Đội du kích Ba Tơ là một trong những lực lượng vũ trang cách mạng ra đời trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và trở thành lực lượng nòng cốt của quần chúng cách mạng ở Quảng Ngãi trong những ngày tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở Thừa Thiên - Huế và vùng Nam Trung Bộ. Nhiều thành viên Đội du kích Ba Tơ về sau đã trở thành cán bộ tài năng, tướng lĩnh xuất sắc của quân đội ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Năm 1980, quần thể các địa điểm di tích về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và Đội du kích Ba Tơ được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận Di tích Lịch sử- Văn hóa quốc gia. Năm 2010, Đội du kích Ba Tơ được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp. Theo đó, di tích Quốc gia đặc biệt Địa điểm về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ gồm có 11 địa điểm:. 1. Khúc sông Liêng (thị trấn Ba Tơ), phía sau đồn Ba Tơ, nơi các chiến sĩ cách mạng giả bệnh lao, đòi sống cách ly dưới thuyền, che mắt địch để in ấn truyền đơn, tài liệu tuyên truyền vận động cách mạng. 2. Lò gạch Nước Năng (thị trấn Ba Tơ), nơi thành lập Tỉnh ủy Quảng Ngãi vào cuối tháng 12.1944. 3. Nhà đồng chí Trần Quý Hai (thị trấn Ba Tơ), nơi Tỉnh ủy lâm thời tổ chức cuộc họp bất thường (10.3.1945) quyết định khởi nghĩa cướp chính quyền. 4. Chòi canh Suối Loa (xã Ba Động), nơi Tỉnh ủy Quảng Ngãi họp khẩn cấp vào trưa ngày 11.3.1945 để quyết định chuyển hướng khởi nghĩa giành chính quyền tại huyện lỵ Ba Tơ. 5. Đồn Ba Tơ, nơi trú đóng của đội lính do tên đồn trưởng người Pháp chỉ huy, kiểm soát châu Ba Tơ, bị quân khởi nghĩa đánh chiếm trong đêm 11.3.1945. 6. Nha kiểm lý (thị trấn Ba Tơ) là nơi vào đêm 11.3.1945 các lực lượng nổi dậy vây bắt viên kiểm lý Bùi Danh Ngũ, thu toàn bộ ấn triện, hồ sơ, tài liệu, vũ khí; giành chính quyền về tay nhân dân. 7. Sân vận động Ba Tơ (thị trấn Ba Tơ), là nơi Đội du kích Ba Tơ được thành lập và là địa điểm vào sáng ngày 12/3/1945 Ban chỉ huy cuộc khởi nghĩa tổ chức cuộc mit tinh lớn, tuyên bố xoá bỏ chính quyền thực dân phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng. 8. Bãi Hang Én (xã Ba Vinh), dưới chân núi Cao Muôn, là nơi vào đêm 14.3.1945, đội du kích Ba Tơ tổ chức tuyên thệ “Hy sinh vì Tổ quốc!”. 9. Bến Buôn (xã Ba Thành), nơi đây là địa điểm tiếp nhận lương thực, vũ khí do nhân dân miền xuôi quyên góp, chuyên chở bằng đường sông tiếp tế cho Đội du kích Ba Tơ xây dựng chiến khu kháng Nhật ở Nước Sung, Nước Lá. 10. Chiến khu Nước Lá- Hang Voọt Rệp (xã Ba Vinh), nơi Đội du kích Ba Tơ trú quân, xây dựng căn cứ, luyện tập quân sự kháng Nhật. 11. Chiến khu Núi Cao Muôn (xã Ba Vinh), một trong những nơi đội du kích Ba Tơ đặt căn cứ trong những ngày đầu khởi nghĩa, xây dựng lực lượng, vun đắp tình đoàn kết Kinh - Thượng. Tháng 8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định công nhận các xã: Ba Vinh, Ba Giang, Ba Động, Ba Chùa, Ba Thành và thị trấn Ba Tơ thuộc vùng "An toàn khu của Trung ương ở Quảng Ngãi" trong thời kỳ chống Pháp. Ngày 25/12/2017, Thủ tướng Chính phủ Quyết định công nhận các địa điểm về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ là "Di tích quốc gia đặc biệt". Nguồn: Tổng hợp di tích quốc gia
Quảng Ngãi 4766 lượt xem
Khu chứng tích Sơn Mỹ, nằm cạnh quốc lộ 24B, thuộc địa phận thôn Tư Cung, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là nơi vừa gìn giữ chứng tích hiện trường, vừa là nơi trưng bày hình ảnh, hiện vật và đặt tượng đài tưởng niệm 504 nạn nhân vụ thảm sát Sơn Mỹ, hay còn gọi là vụ thảm sát Mỹ Lại. Sơn Mỹ là tên chính quyền Sài Gòn đặt cho xã Tịnh Khê, còn Mỹ Lại là cách viết trong các tài liệu, bản đồ của quân đội, và sau nầy trên báo chí Mỹ, chỉ định xã Tịnh Khê. Tên gọi nầy bắt nguồn từ tên thôn Mỹ Lại, một trong 4 thôn (ấp) của Sơn Mỹ. Pinkville (Làng Hồng) cũng là một tên khác của Sơn Mỹ được quân đội Mỹ sử dụng như một biệt danh trong các bản đồ tác chiến. Vụ thảm sát Sơn Mỹ xảy ra ngày 16/3/1968, nhằm ngày 18/2 năm Mậu Thân, theo âm lịch. Đơn vị chủ lực gây ra sự kiện đẫm máu, làm chấn động dư luận thế giới là trung đội 1, lữ đoàn 11, sư đoàn Armerical, quân viễn chinh Mỹ. Vào “buổi sáng khủng khiếp” đó, sau những loạt đạn pháo dồn dập nã vào xóm làng, quân Mỹ đổ bộ bằng trực thăng xuống cánh đồng phía tây thôn Tư Cung và xóm Gò (thôn Cổ Lũy) cùng thuộc xã Tịnh Khê. Cuộc thảm sát có tính chất hủy diệt và tàn bạo đến điên cuồng bắt đầu với việc lính Mỹ truy lùng và nã đạn vào dân thường. Nhà cửa, hầm trú ẩn bị đánh sập, đốt cháy, trâu bò bị bắn giết. Đỉnh điểm của sự dã man là việc tập trung dân làng, hầu hết là người già, phụ nữ và trẻ em, thành từng tốp rồi xả súng bắn giết. 102 người bị giết ở Tháp Canh, 170 người khác bị bắn ở một đoạn mương nước phía đông xóm Thuận Yên thôn Tư Cung. Lính Mỹ đã không gặp bất cứ một phản ứng nào từ phía “đối phương”, ngoài những tiếng thét hoảng loạn, đau đớn của các nạn nhân vô tội. Tổn thất duy nhất của họ về nhân sự là việc người lính da đen Herbert Carter tự bắn vào chân mình để khỏi tham gia vào vụ thảm sát đồng loại. Sự thật ghê rợn:. Chỉ trong một buổi sáng, có đến 504 thường dân vô tội bị giết chết (407 người ở thôn Tư Cung, 97 người ở thôn Mỹ Hội), trong đó có 182 phụ nữ, 173 trẻ em, 60 cụ già. Có 24 gia đình bị giết sạch, 247 ngôi nhà bị thiêu rụi. Ngay sau vụ thảm sát, Ủy ban Mặt trận dân tộc giải phóng các cấp và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã lên tiếng tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước về tội ác của quân viễn chinh Mỹ. Tuy nhiên phải đến một năm rưỡi sau, sự kiện kinh hoàng nầy mới được phanh phui ở Mỹ bởi chính các nhà báo và cựu binh Mỹ. Người Mỹ và cả thế giới bàng hoàng. Phong trào phản đối sự tham chiến của Mỹ ở Việt Nam lan rộng. Nhiều nhân sỹ, trí thức, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới đòi đưa các nhân vật đứng đầu ở Nhà Trắng và Lầu Năm Góc ra xét xử về tội ác chiến tranh. Sau ngày miền Nam giải phóng, chính quyền cách mạng đã cho bảo vệ các chứng tích còn lại sau vụ thảm sát, xây dựng nơi tưởng niệm các nạn nhân và nhà trưng bày hình ảnh, hiện vật liên quan đến vụ thảm sát Sơn Mỹ tại xóm Thuận Yên, thôn Tư Cung, bên cạnh con mương dẫn nước từng đỏ máu 107 nạn nhân bị sát hại tập thể. Sau nhiều lần trùng tu, hiện nay khu chứng tích có diện tích 2,4ha, bao gồm 2 khu vực chính là khu chứng tích thực địa (phía tây) đã được bảo tồn, tôn tạo và khu nhà trưng bày bổ sung, tượng đài tưởng niệm, nhà đón khách (phía đông). Ngoài ra, còn có các di tích liên quan đến vụ thảm sát tại thôn Tư Cung và thôn Mỹ Lại. Ở đây có phim tư liệu ghi lại lời kể và hình ảnh của những nạn nhân sống sót, có nhiều cuốn sổ lưu niệm mà khách thăm viếng đã viết vào đó bằng nhiều thứ tiếng, thể hiện chân thực cảm nghĩ, thái độ của nhiều người, thuộc nhiều thế hệ, nhiều tôn giáo, dân tộc và xu hướng chính trị khác nhau, khi trực tiếp tìm hiểu về vụ thảm sát Sơn Mỹ. Nguồn: Báo điện tử Quảng Ngãi
Quảng Ngãi 4336 lượt xem
Văn hóa Sa Huỳnh là văn hóa khảo cổ thuộc thời đại kim khí, được hình thành đỉnh cao văn minh vào thời kỳ đồ sắt có niên đại từ 500 năm trước công nguyên, kết thúc ở thế kỷ hai sau công nguyên, có nguồn gốc hình thành phát sinh và phát triển từ các văn hóa tiền Sa Huỳnh trước đó thuộc sơ kỳ đồng thau, Trung kỳ đồng thau. Phân bố của Văn hóa Sa Huỳnh là ở miền Trung Việt Nam, phía Bắc giao thoa với Văn hóa Đông Sơn ở Quảng Bình, phía Nam giao thoa với Văn hóa Đồng Nai ở Bình Thuận, phía Tây là rìa Tây Nguyên, vùng thung lũng Đông Trường Sơn, phía Đông vươn ra đảo gần bờ. Táng thức cơ bản của Văn hóa Sa Huỳnh là mộ chum chôn thành khu nghĩa địa lớn, đồng thời cũng tìm thấy mộ vò, mộ đất tại các khu mộ táng Văn hóa Sa Huỳnh. Đồ trang sức đặc trưng của Văn hóa Sa Huỳnh là khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu, hạt chuỗi mã não, vòng tay được chế tác từ đá quý, thủy tinh, vỏ nhuyễn thể biển. Nghề chế tạo thủy tinh và luyện rèn sắt thành tựu nổi bật của văn minh Sa Huỳnh, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của xã hội Sa Huỳnh. Văn hóa Sa Huỳnh có sự giao lưu rộng rãi với các văn hóa khác trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Di tích quốc gia đặc biệt văn hóa Sa Huỳnh thuộc loại hình di tích khảo cổ, có 6 địa điểm di tích gồm:. Đầm An Khê, Lạch An Khê – sông Cửa Lỗ, Phú Khương, Long Thạnh, Thạnh Đức, Quần thể di tích Champa. Hai địa điểm Long Thạnh và Phú Khương đã được Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định xếp hạng Di tích lịch sử – văn hoá Quốc gia. 1. Địa điểm di tích Long Thạnh. Địa điểm di tích Long Thạnh (còn gọi là Gò Ma Vương) thuộc tổ dân phố Long Thạnh 2, phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ. Long Thạnh là di tích tiền Sa Huỳnh thuộc sơ kỳ đồng thau, là nguồn gốc trực tiếp phát triển lên Văn hóa Sa Huỳnh sơ kỳ sắt. Di tích Long Thạnh nổi bật với loại quan tài chum hình trứng và hình cầu, phía trên có nắp đậy là bát bồng hay dạng mộ nồi có hai nồi chôn úp nhau. Bộ sưu tập hiện vật đặc trưng với loại cuốc đá hình lưỡi mèo, loại bôn đá hình răng trâu, nhóm trang sức bằng đá quý nephrit gồm khuyên tai 4 mấu, khuyên tai hình vành khăn, ống chuỗi hình đốt trúc, ống chuỗi hình trụ được chế tác công phu và tinh xảo. Bộ sưu tập hiện vật Long Thạnh đáng chú ý là đồ gốm. Đồ đựng bằng gốm của Long Thạnh đa dạng về loại hình và phong phú về hoa văn. Di tích Long Thạnh mang đặc trưng giai đoạn sớm, đại diện cho một giai đoạn văn hóa sơ kỳ đồng thau tiến lên giai đoạn sơ kỳ sắt của Văn hóa Sa Huỳnh. 2. Địa điểm Di tích Phú Khương. Di tích Phú Khương là khu mộ chum Văn hoá Sa Huỳnh rất lớn, phân bố trên trảng cát lớn của dải cồn cát Sa Huỳnh ven đầm An Khê, thuộc thôn Phú Long, xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ. Di tích thuộc giai đoạn Sa Huỳnh sắt sơ kỳ, mộ chum luôn được chôn thành cụm trên vùng cồn cát nằm ven bờ biển, cạnh đầm nước ngọt và do vậy ở gần đâu đó là di tích cư trú của những chủ nhân khu mộ chum Phú Khương. Bên trong chum có nhiều đồ tùy táng, một vài chum chứa di cốt người, di vật tùy táng trong chum có nồi, bát, bình gốm, đồ sắt, đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng tay bằng thuỷ tinh và đá bán quý. Đặc trưng di tích Phú Khương là các đồ trang sức bằng đá quý, đó là loại hạt chuỗi màu đỏ sẫm bằng đá mã não có nhiều hình dạng như hình vuông dẹp, hình quả trám, hình thoi, hình đa diện lục giác, bát giác. 3. Địa điểm Di tích Thạnh Đức. Di tích Thạnh Đức là khu mộ chum Văn hóa Sa Huỳnh phân bố trên dải cồn cát Sa Huỳnh, giữa một bên là biển và một bên là đầm nước mặn của khu đồng muối Tân Diêm, thuộc tổ dân phố Thạnh Đức, phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ. Khu mộ chum Thạnh Đức có số lượng chum táng rất lớn, nếu tính tổng số mộ chum khai quật được đã đến con số 175 chum. Trong chum có chứa di vật tùy táng như đồ đồng, công cụ sắt, đồ trang sức khuyên tai bằng đá nephrit, bằng thủy tinh và nhiều đồ đựng bằng gốm. Đồ đồng Thạnh Đức có loại lục lạc đồng, đây là bằng chứng giao lưu giữa Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Đông Sơn. Đặc biệt ở Thạnh Đức có loại vòng đeo tay chất liệu đồng sắt kết hợp. Đây là di vật độc đáo lần đầu tiên tìm thấy trong di tích Văn hóa Sa Huỳnh. 4. Quần thể di tích Champa trong không gian Sa Huỳnh. Quần thể di tích Champa trong không gian Sa Huỳnh gồm: Tháp núi Một, Tháp Gò Đá, Cầu Đá, Miếu Champa (Miếu thờ Thổ Chủ), Bia ký Champa, Hệ thống giếng Champa, Con đường xếp đá cổ (Sa Huỳnh - Champa - Việt), Hệ thống mương thủy lợi cổ Champa. Về hiện trạng: Các tháp Champa như tháp núi Một chỉ còn lại phế tích nền đế tháp. Tháp Gò Đá còn lại dấu tích đế tháp nằm bên cạnh tuyến đường thiên lý. Đường xếp đá cổ, mương thủy lợi cổ, cầu đá cổ vẫn còn giữ nguyên vẹn. 5. Đầm An Khê. Đầm An Khê nằm cạnh Quốc lộ 1A, thuộc xã Phổ Khánh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Đầm An Khê có giá trị nổi bật là một hồ nước ngọt cạnh biển lớn nhất Việt Nam, là nơi chuyển tiếp hệ sinh thái trên cạn và biển, cùng tồn tại trong một tổng thể các hệ sinh thái nước ngọt, nước lợ, nước mặn và sản xuất nông nghiệp, đóng vai trò quan trọng đối với môi trường và sự phát triển kinh tế xã hội của vùng. 6. Lạch An Khê, sông Cửa Lỗ. Phía Đông của đầm An Khê có lạch thoát nước ra biển nhỏ hẹp với diện tích 58,5 ha, cuối con lạch là cửa đầm - người dân địa phương thường gọi Cửa Lỗ, cửa này hầu như kín quanh năm. Đầm, lạch An Khê và sông Cửa Lỗ gắn liền với sự hình thành nên Văn hóa Sa Huỳnh, là điều kiện thiên nhiên cơ bản để hình thành nên các di tích Văn hóa Sa Huỳnh, Văn hóa Champa và Văn hóa Việt ở xung quanh đầm. Nguồn: Trung tâm thông tin văn hoá thể thao thị xã Đức Phổ
Quảng Ngãi 4327 lượt xem
Khu du lịch sinh thái Măng Đen nằm ở thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Măng Đen là cụm cứ điểm của địch, án ngữ trên đường 5 từ Kon Tum đi Quảng Ngãi, nay là quốc lộ 24, cách thành phố Kon Tum khoảng 55 km về phía Đông Bắc. Đây là cụm cứ điểm của địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta. Bao quanh cứ điểm là hệ thống các vật cản phức tạp dày đặc với 10 lớp kẽm gai và 2 lớp rào. Xen kẽ các lớp hàng rào là mìn chống bộ binh, xe tăng và tuyến hào hình lòng máng rộng 4m, sâu 2,5m, cắm chông dày đặc. Bên trong xây dựng hàng trăm lô cốt bằng bê tông cốt thép, gỗ đất, có đường hầm nối liền các công sự và ba góc có ba lô cốt mẹ bằng bê tông cốt thép kiên cố. Vào giữa năm 1974, Tỉnh ủy Kon Tum và Bộ Tư lệnh B3 đã chủ trương tấn công tiêu diệt các cứ điểm của địch nhằm mở rộng vùng giải phóng, tạo đà tiến về vùng tạm chiếm Kon Tum. Sau thời gian chuẩn bị, đúng 5 giờ 30 phút sáng ngày 3 tháng 10 năm 1974, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Bộ binh 28, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 ra lệnh nổ súng tấn công sở chỉ huy địch. 7 giờ 55 phút hoả lực của ta đồng loạt bắn vào các mục tiêu. Sau thời gian ngắn phát triển tấn công, lúc 10h45′ ta làm chủ hoàn toàn chốt điểm M12. Trước sức mạnh tấn công của lực lượng H16, H29, cùng bộ đội chủ lực Trung đoàn Bộ binh 28 và một số binh chủng kỹ thuật của ta, ngày 12 tháng 10 năm 1974, cứ điểm cuối cùng của địch nằm sâu trong vùng giải phóng phía Đông Bắc Kon Tum đã bị xoá sổ hoàn toàn. Chiến thắng Măng Đen tháng 10 năm 1974, quân ta đã đập tan cứ điểm cuối cùng của địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta, phá vỡ tuyến hành lang an toàn của địch ở phía Bắc thị xã Kon Tum, làm cho quân địch ở chiến trường Bắc Tây Nguyên bị uy hiếp mạnh. Chiến thắng này đã giải phóng hàng ngàn người dân với một vùng đất rộng lớn là một niềm cổ vũ lớn lao thúc đẩy hành động cách mạng của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc ít người; đồng thời, củng cố xây dựng chính quyền và lực lượng vũ trang địa phương phát triển vững mạnh. Trên đà thắng lợi, lực lượng vũ trang đã bao vây quận lỵ Măng Bút, giải phóng toàn bộ nhân dân trong vùng. Cùng với thắng lợi tại các cứ điểm Đăk Pét, Măng Bút, chiến thắng Măng Đen đã góp phần mở rộng vùng giải phóng đến sát thị xã Kon Tum, tạo thế và lực mới cho chiến dịch Tây Nguyên, mở đường giải phóng Sài Gòn, kết thúc thắng lợi chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, thống nhất đất nước. Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Măng Đen đã được công nhận là Di tích Lịch sử – Danh thắng cấp quốc gia vào ngày 13 tháng 4 năm 2002. Nguồn:Du lịch Kon Tum
Quảng Ngãi 4314 lượt xem
Tải ứng dụng Travelviet để nhận thông báo về tin tức du lịch mới nhất