Di tích lịch sử

Đồng Tháp

Lăng Hoàng Gia

Lăng Hoàng gia được xây dựng năm 1826, gồm lăng mộ và đền thờ ông Phạm Đăng Hưng, là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị. Vào cuối thế kỷ thứ 16, ông Phạm Đăng Long theo cha vào vùng Gò Công. Lúc ông đến Gò Rùa (Sơn Quy), thấy thế đất rất đẹp nhưng toàn vùng Gò Công lúc bấy giờ không có chỗ nào đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Quy, nên quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này. Ông Phạm Đăng Hưng là con thứ 3 của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy, vào năm 1764 (nay là ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, Thị Xã Gò Công – tỉnh Tiền Giang). Ông là người thông minh, văn võ song toàn. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau đó được thăng Lại bộ Tham tri. Đến năm 1824 được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, năm 1825 ông được giao phó giữ kinh thành Huế. Mùa hạ năm 1825, Phạm Đăng Hưng thọ bệnh và mất, linh cữu được đưa về quê hương, an táng tại Gò Sơn Quy. Năm 1849, ông được vua Tự Đức truy phong Tước Đức Quốc công. Ông có 4 người con làm quan to trong triều Nguyễn. Vua Minh Mạng kết thông gia gả công chúa cho con trai ông là Phạm Đăng Thuật và phong chức Phò mã Đô úy. Vua Minh Mạng cũng cưới con gái của ông là Phạm Thị Hằng (tức bà Từ Dũ) cho Hoàng tử Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị. Lăng được xây dựng do ông Phạm Đăng Tá, con trai trưởng của Phạm Đăng Hưng xây dựng trên phần đất rộng 3.000 m2, ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng. Các nghệ nhân tài hoa bậc nhất chuyên xây dựng lăng tẩm, cung đình từ Huế được đưa vào cùng với nghệ nhân địa phương xây dựng nên công trình kiến trúc độc đáo, mang đậm phong cách cung đình. Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc công đã cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình. Vào từ đường, chúng ta thấy nơi chính vị thờ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng; bên trái thờ Phước An hầu Phạm Đăng Long, là cha của Phạm Đăng Hưng; bên phải thờ Bình Thạnh bá Phạm Đăng Dinh; căn chót bên trái thờ Mỵ Khánh tử Phạm Đăng Tiên, ông cố Phạm Đăng Hưng và bên phải thờ Thiềm sự phủ Phạm Đăng Khoa, là ông sơ Phạm Đăng Hưng. Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ xây theo kiểu dáng đỉnh trụ hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen. Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. Ngũ đại thành xương - Tường lân ống hiện, (Năm đời danh giá tốt đẹp - Điềm lành kỳ lân hiện ra ). Vòng quanh mộ ông có một số phù điêu trang trí như búp sen, cá hóa long… Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Năm Khải Định 1921 lăng được trùng tu một lần nữa và đến năm 1998 ngôi nhà thờ được đại trùng tu, phần nào trả lại những nét kiến trúc đặc biệt dành cho Hoàng tộc tại xứ Gò nổi tiếng. Ngày 2/12/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Khu lăng mộ Hoàng gia là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Tiền Giang

Đồng Tháp 3566 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Trương Định

Trương Định (Trương Công Định) sinh năm 1820, người xã Tư Cung, huyện Bình Sơn, nay thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Trương Định là con của quan Thuỷ Vệ Uý Trương Cầm, tỉnh Gia Định. Năm 1844 Trương Định theo cha vào Nam và cưới vợ là bà Lê Thị Thưởng con một nhà hào phú ở làng Tân Phước, huyện Tân Hoà, khi cha mất Trương Định ở luôn quê vợ Tân Hoà. Năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đem hết tài sản đi chiêu mộ dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, thuộc huyện Gò Công Đông ngày nay và được bổ chức Phó Quản Cơ của đồn điền. Trong thời gian khẩn hoang Trương Định đã gặp và cưới bà Trần Thị Sanh là anh em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu (mẹ vua Tự Đức). Tháng 4/1861, thực dân Pháp chiếm thành Định Tường, Tháng 11/1861 chiếm thành Biên Hòa và đến tháng 3/1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long. Triều đình ký hòa ước "Nhâm tuất" vào ngày 5/6/1862 cắt 3 tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường cho Pháp. Tiếp đó, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang. Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu thì Ông nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử Ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm kích sự tính nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, Ông đã khước từ lệnh của triều đình và nhận danh hiệu "Bình Tây Đại Nguyên Soái" do nhân dân phong, tiếp tục cuộc chiến đấu chống giặc Pháp. Ngày 20/8/1864, giặc Pháp bất ngờ bao vây đánh úp nghĩa quân tại Đám lá tối trời, truy kích Ông và nghĩa quân. Ông rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Gò Công và chọn Lý Nhơn, một vị trí nằm giữa vùng đất phù sa có rừng dừa nước che kín giáp ranh Biên Hoà (nay là TP Hồ Chí Minh) làm phòng tuyến mới . Cuối tháng 9/1863 giặc mở cuộc bao vây đánh úp căn cứ nầy. Thoát được cuộc bố ráp truy kích của giặc ở Lý Nhơn, Trương Định trở về Đám lá tối trời, một mặt Ông xây dựng lại lực lượng và kêu gọi các sĩ phu yêu nước hãy đứng lên góp công góp sức, hiến kế đánh giặc, đó là hịch tháng 8/1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Ông khắp nơi một làn sóng kháng chiến lại nổi lên ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ lớn và vùng giáp ranh Biên Hoà làm cho giặc Pháp hoang mang và càng ra sức truy tìm để diệt Ông. Đêm 19/8/1864, dò biết nơi ở của Trương Định, tên phản bội Huỳnh Công Tấn cho quân bao vây đột nhập vào nhà. Trương Định và những nghĩa quân của ông chiến đấu chống trả quyết liệt, diệt được một số quân địch, nhưng lại bị thương nặng, biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, Ông đã rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết người anh hùng, năm ấy ông tròn 44 tuổi. Sau khi Trương Định mất vào ngày 20/8/1864, bà Trần Thị Sanh là người vợ thứ của Trương Định và nhân dân mang Ông về an táng rất trọng thể, tại một địa điểm nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1964, ngôi mộ và đền thờ Ông được tu bổ khang trang và giữ nguyên dáng dấp đến ngày nay. Ngoài mộ và đền thờ tại thị xã Gò Công, nhân dân còn lập một đền thờ tại xã Gia Thuận huyện Gò Công Đông, nơi được gọi là "Đám lá tối trời" mà Trương Định và nghĩa quân từng làm căn cứ chống Pháp để thờ Ông. Di tích mộ và đền thờ Trương Định ở thị xã Gò Công được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 30/8/1987. Còn đền thờ Trương Định ở xã Gia Thuận huyện Gò Công Đông được công nhận là di tích cấp quốc gia năm 2004. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Tiền Giang

Đồng Tháp 3781 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chiến lũy Pháo Đài của Trương Định

Di tích Lũy Pháo Đài thuộc ấp Pháo Đài (xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông), đây là di tích lịch sử dân tộc được xếp hạng cấp quốc gia năm 1987. Theo tư liệu của Tiến sĩ Nguyễn Phúc Nghiệp (Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang), Di tích Lũy Pháo Đài có lịch sử như sau: Để bảo vệ Cửa Tiểu, năm Minh Mạng thứ 15 (năm 1834), Triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây Đồn Từ Linh, chu vi 60 trượng (378m), cao 5 thước 5 tấc (2,57 m), mở hai cửa. Năm Thiệu Trị thứ 3 và thứ 7 (1834 - 1847) được sửa chữa lại. Sau khi thành Định Tường thất thủ, tháng 4/1861, Trương Định về Tân Hòa xây dựng căn cứ kháng Pháp. Đồn Từ Linh được sử dụng làm chiến lũy, gọi là chiến lũy Pháo Đài, có trang bị súng thần công loại lớn (vị trí đặt khẩu thần công trước kia nằm tận ngoài giữa hai hướng cửa thành Tây và Tây Bắc cạnh đầu bờ sông Cửa Tiểu và rạch Đồn chừng 60m). Lũy Pháo Đài xung quanh là thành đất đắp cao, dày có 6 cạnh cân đối khá đều nhau, thành hình lục lăng (lục giác), trên thành đất trồng me, chính giữa có cây trôm to và giếng nước. Theo hướng Đông-Nam, Pháo Đài có một gò tròn cao 21m tên Thổ Sơn, được xem là đài quan sát của nghĩa quân. Bên ngoài thành lũy có rừng kè, đước, dừa nước, bần bao bọc; dưới lòng sông, để bảo vệ cửa sông và ngăn chặn tàu chiến của địch có ủi bãi xung phong lên bờ. Ngoài ra, để làm tàu địch giảm tốc độ và làm bia cho những khẩu thần công để đẩy địch dạt sang bờ Trại Cá cho nghĩa quân tiêu diệt, Trương Định đã đổ đá hàn một đoạn theo chiều rộng của sông Cửa Tiểu trước chiến lũy về hướng Tây gọi là Đập Đá Hàn. Đập này ngày nay vẫn còn và đã được đánh dấu để tàu bè ra vào không vướng. Chiến lũy Pháo Đài đã cùng nghĩa quân trấn giữ một cửa biển quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1987, Lũy Pháo Đài được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2000, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành xây dựng nhà bia Di tích Lũy Pháo đài. Nhà bia có kiến trúc đẹp, thoáng mát và trang nghiêm, với chiều cao 9,4 m, rộng 8,4 m, mái ngói, cột bê tông, nền tôn cao 2m so với mặt đất và đã tiến hành phục chế 2 súng thần công. Trong quá trình thi công làm đường vào Khu di tích Lũy Pháo Đài, xe Kobe đã đào lên 2 viên gạch lạ ở độ sâu khoảng 1,4 m, hướng Đông (quay ra biển), dưới chân đồn lũy và tặng cho Bảo tàng Tiền Giang. Qua khảo sát trực tiếp tại thực địa, Bảo tàng Tiền Giang phát hiện thêm 4 viên gạch thẻ khá to nằm lẫn trong đất, đều bị gãy, hình dạng khác nhau, nhưng đặc biệt trên đầu mỗi viên gạch đều có chữ khắc chìm: Giáp tam, giáp ngũ, giáp bát, giáp cửu. Theo Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Tân Phú Đông cho biết: Di tích Lũy Pháo Đài được đưa vào tuyến tham quan truyền thống với các cụm di tích quốc gia khác ở khu vực Gò Công như: Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định, Nhà Đốc Phủ Hải, Đám lá tối trời... Di tích này không chỉ là điểm tham quan mà còn trở thành một trong những “địa chỉ đỏ” cho thế hệ trẻ về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng của cha ông. Hiện nay, Lũy Pháo Đài đang được trùng tu, xây mới các hạng mục như: Hệ thống hàng rào bảo vệ, lối đi và đường đi vào khu di tích. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Tiền Giang

Đồng Tháp 5121 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích chiến thắng lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút

Di tích lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút gắn liền với chiến công hiển hách của dân tộc ta chống quân Xiêm (1785), diễn ra trên đoạn sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (nay thuộc xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang). Trận đánh Rạch Gầm - Xoài Mút là bằng chứng khẳng định cho tài thao lược của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và sức mạnh của phong trào Tây Sơn - phong trào nông dân đảm nhận sứ mạng bảo vệ đất nước, chống giặc ngoại xâm. Nửa sau thế kỷ 18, trong bối cảnh Trịnh – Nguyễn phân tranh, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Năm 1771, vua Xiêm (Thái Lan) Chakki 1 cử 5 vạn quân, gồm 3 vạn bộ binh và 2 vạn thủy binh sang xâm lược nước ta. Đêm ngày 19 rạng sáng ngày 20/01/1785, từ Trà Tân - cách Rạch Gầm khoảng 15km về phía thượng nguồn, quân Xiêm dưới sự chỉ huy của Chiêu Tăng với 300 chiến thuyền, xuôi dòng tấn công vào Mỹ Tho. Vừa qua khỏi Rạch Gầm, toàn bộ chiến thuyền Xiêm bị lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn. Nguyễn Huệ trực tiếp đốc chiến… Mọi cố gắng chống cự của giặc đều bị đập tan, các chiến thuyền bị đánh chìm hoặc bốc cháy. Kết quả, gần 5 vạn quân Xiêm - Nguyễn bị tiêu diệt, hơn 300 chiến thuyền Xiêm bị nhấn chìm, tàn quân giặc phải liều chết mở đường máu mới thoát được thân, chạy bộ qua Chân Lạp. Di tích chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút hiện nay là các công trình được xây dựng trên địa điểm diễn ra sự kiện lịch sử năm xưa, gồm các hạng mục: cổng, tường rào, tượng đài (phòng trưng bày số 1), phòng trưng bày số 2 và nhà cổ Nam bộ (phòng trưng bày số 3). Cổng: rộng 4,1m, cao 6,61m, trên trụ cổng và tường rào bao bọc chung quanh di tích được làm theo dạng hình thuyền. Tượng đài Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút: bằng đồng, nặng 20 tấn cao 8m, đứng trên bệ tượng bê tông cao 10m. Phòng trưng bày số 1: nằm ngay phía dưới tượng đồng, xây dựng theo hình thuyền chiến, có diện tích 135m2. Mặt tường ngoài trang trí dãy phù điêu bằng đồng có chiều rộng 0,8m, nặng 6 tấn, với hoa văn, họa tiết chim lạc, hình người cầm khiên chiến đấu (được lấy nguyên mẫu từ Trống đồng Đông Sơn)... Trong phòng trưng bày các hiện vật, vũ khí của nghĩa quân Tây Sơn và quân Xiêm. Phòng trưng bày số 2: tổng diện tích 132m2, diện tích trưng bày 93,5m2. Nội dung trưng bày diễn biến trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút. Nhà cổ Nam bộ (phòng trưng bày số 3): Đây là ngôi nhà cổ 3 gian, xây dựng từ năm 1927, tái hiện hình ảnh ngôi nhà vườn cổ Nam Bộ. Trong nhà cổ có trưng bày một số hiện vật liên quan đến chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút. Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút lấy mốc thời gian là ngày 20/01/1785 để làm lễ kỷ niệm. Với những giá trị đặc biệt, Di tích lịch sử Địa điểm chiến thắng Rạch Gầm- Xoài Mút (huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Đồng Tháp 5237 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật