Đình thờ Triệu Đà (thời Triệu Vũ Đế), thôn 10, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang. Đình được xây dựng từ lâu, trùng tu thời Nguyễn niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871). Hiện nay còn lưu giữ hiện vật như: Kiệu, bia đá, ngai, tượng thờ. Lễ hội hằng năm từ ngày 14 đến 16 tháng 2 âm lịch. Đình Triệu Đà xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên có tên là “Nam Việt Linh từ”, đến thời Lý Anh Tông mới đổi tên là đình Long Hưng. Đình Triệu Đà mang đậm nét kiến trúc của thế kỷ 17 – 18. Khuôn viên đình rộng rãi, thoáng đãng với diện tích vào khoảng 13000m. Đình được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, các hạng mục công trình nằm trên một trục đường thẳng trải dài từ cổng đình vào đến hậu cung. Các hạng mục chính của di tích gồm có: cổng ngoài, Nghi Môn, đại bái, hậu cung hạ, hậu cung thượng và hai dãy giải vũ. Mặt tiền đình quay hướng Nam, đó là hướng của trí tuệ, của sự sống. Nghi môn ở đình Triệu Đà khác hẳn so với Nghi môn của rất nhiều tích khác. Nghi môn được làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, các đao đắp đầu rồng và đầu con sô ngẩng cao, mái lợp ngói mũi, đường bờ lóc lưỡng long chầu phật. Phần cổ diêm đắp ba chữ Hán: “Long Hưng Điện” (Điện Long Hưng). Kết cấu kiến trúc Nghi môn kiểu chồng rường đấu sen, bào trơn đóng bén, hai gian bên cạnh đặt hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng nghiêm trang của người đứng gác. Hai bên Nghi môn còn có hai cổng phụ làm theo kiểu hai tầng tám mái, phía bên trong cổng phụ là con đường nhỏ đi vào khu nội tự. Đình Triệu Đà xây một cổng chính và hai cổng phụ như ngày nay có thể nơi đây xưa kia Vua quan trong triều thường về đây tế lễ, cầu đảo điều linh ứng. Qua sân là đến khu nội tự, công trình đầu tiên là tòa đại bái với 3 gian 2 dĩ được xây theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các đao mái hình đầu rồng ngẩng cao. Đầu bờ nóc đắp hai con sô chầu mặt nhật ở giữa nóc. Đại bái được làm kiểu thông phong, hai đầu hồi bít đốc, mặt dưới và sau để trống tạo lên sự thông thoáng cho di tích. Các bộ vì đại bái được kết cấu kiểu chồng rường đấu sen, các con rường, đầu 7 đều được chạm hoa lá cách điệu. Gian giữa đại bái đặt nhang án thờ công đồng, nhang án làm bằng gỗ và được chạm khắc tứ linh, tứ quý. Trên nhang án để các đồ thờ cúng như: bát hương, bộ đỉnh đồng, đôi lục bình…Hậu cung đình Triệu Đà bao gồm ba gian hai dĩ, mái lợp ngói mũi. Ở gian giữa phía hè hiên được dựng nhô về phía trước tạo thành một gian. Gian này được làm kiểu tứ trụ với hai tầng tám mái. Nơi đay đặt cỗ điệu bát cống. Hai bên hồi hiên đắp hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), Tượng tạo tác tư thế đứng thẳng vẻ mặt nghiêm trang. Ngăn cách giữa hè hiên và bên trong là hệ thống của bức bàn, mỗi cách cửa được trạm khắc một chủ đề như: phượng cưỡi mây, long mã cuốn mây….rất tinh sảo theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Kết cấu các bộ vì hạ cung kiểu giá chiêng đơn giản được bào trơn đóng bén. Nâng đỡ mái là hệ thống hai hàng cột cái và hai hàng cột quân. Tại trung tâm gian giữa đặt bàn thờ, bên trên để ngai bài vị Thành Hoàng Làng Triệu Vũ Đế. Ngai, bài vị cao 2,1m; dài 0,73m; sâu 0,7m. Đế ngai được làm kiểu chân quỳ dạ cá, mặt hổ phù. Bài vị; phần chán hình quả cầu lửa, bên trong trạm 6 con rồng nằm cuộn tròn; phần thân trang chí tứ linh đường riềm làm thành hình đao lửa; trên thân bài vị khắc bài văn bằng chữ Hán ca ngợi công đức của thần. Ngoài ra trên bàn còn bài trí một số đồ thờ tự như: chóe, đôi chân nến, …đặc biệt là một bát hương cổ mầu me ngọc có đường kính 0,3m; cao 0,32m được trang trí hoa văn sơn thủy hai bên bàn thờ đặt hai pho tượng Thái Giám cao 1,76m; ngang vai 0,5m. Tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng. Hai bên dĩ hạ cung đặt bàn thờ; gian bên trái thờ con, cháu của Triệu Đà; Gian bên phải thờ hoàng hậu và hai công chúa, Trưởng Trang và thứ công chúa. Tiếp nối với tòa hạ cung là ba gian thượng cung với kết cấu kiến trúc kiến trúc các vì kiểu vì kèo trụ chốn, bào trơn đóng bén. Các mảng trạm khắc ở tòa này tập trung chủ yếu ở mặt trước cửa ra vào với các đề tài: hoa lá cách điệu, lưỡng long chầu nguyệt, đao lửa, phượng ngậm hoa sen…, được bàn tai nghệ nhân trạm trổ rất tài tình và đầy chất sáng tạo. Ngoài ra, ở hai bên khu nội tự còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy có 10 gian, kết cấu đơn giản, được sử dụng làm nơi tiếp khách và hội họp. Đình được xếp hạng "Kiến trúc nghệ thuật" theo Quyết định số 49/2007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 3/8/2007. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang , tỉnh Hưng Yên
Hưng Yên 2479 lượt xem
Đồng chí Lê Văn Lương - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, với 83 năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ghi nhận những công lao, cống hiến to lớn đó, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương được xây dựng năm 2003 thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Đây là công trình được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên cùng con cháu dòng họ Nguyễn xây dựng nhằm ghi nhớ tới những công lao, cống hiến to lớn của đồng chí với cách mạng Việt Nam. Đây cũng là nơi trưng bày các tư liệu, hình ảnh cũng như tôn thờ đồng chí Lê Văn Lương - Nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, của cách mạng, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Nhà tưởng niệm có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁), gồm hai tòa Tiền tế, Hậu cung và các hạng mục khác như: cổng, nhà tiếp khách, nhà thờ họ Nguyễn, lầu bia... Các hạng mục kiến trúc được làm theo phong cách cổ truyền còn tương đối đồng bộ vững chắc. Tiền tế là nơi trưng bày và giới thiệu gần 100 tài liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng cùng những đóng góp to lớn của đồng chí Lê Văn Lương với quê hương, đất nước. Nối với Tiền tế là một gian Hậu cung kiến trúc đơn giản kiểu kèo cầu quá giang không trang trí hoa văn. Hậu cung là nơi linh thiêng, trang trọng nhất đặt ban thờ đồng chí Lê văn Lương, trên ban thờ đặt pho tượng chân dung đồng chí Lê Văn Lương được đúc bằng do Thủ tướng Phan Văn Khải tặng nhân dịp khánh thành nhà tưởng niệm năm 2003 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng chí. Cùng trong khuôn viên Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương là Nhà thờ dòng họ Nguyễn được đồng chí Nguyễn Thị Bích Thuận (vợ đồng chí Lê Văn Lương) xây dựng năm 2005. Nhà thờ đơn sơ nhưng trang trọng, trên ban thờ đặt ngai và bài vị đề “Nguyễn gia Liệt Tổ”. Bên cạnh nhà thờ dòng họ Nguyễn là lầu bia được dựng kiểu tứ trụ với bốn mái cong xoắn chôn ốc. Bên trong đặt tấm bia đá khắc ghi những lời ca ngợi công đức và tấm lòng son sắt vì Đảng vì dân của đồng chí Lê Văn Lương và phu nhân Nguyễn Thị Bích Thuận. Hàng năm, ngày giỗ đồng chí Lê Văn Lương được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng họ tổ chức vào ngày 26/3 âm lịch (ngày mất của đồng chí). Đây cũng là dịp mọi người cùng quây quần gặp mặt để tưởng nhớ tới công ơn của các bậc tiền bối đã hy sinh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của con cháu hôm nay và mai sau. Để tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Văn Lương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa, lịch sử của Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 673/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 24/3/2022 công nhận xếp hạng Địa điểm lưu niệm đồng chí Lê Văn Lương là “Di tích lịch sử” cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.
Hưng Yên 2612 lượt xem
Đình Đa Ngưu ở làng Đa Ngưu, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang (Hưng Yên) cho biết, căn cứ vào dấu tích lăng Bà Chúa cũng như sắc phong của các triều đại (trong đó có sắc phong của Vua Quang Trung năm xưa để lại, đình Đa Ngưu được xây dựng từ rất sớm. Năm 1520, hai anh em ông Cống Cả, Cống Hai đã đứng lên tổ chức xây dựng đình. Khi khởi dựng, các bô lão trong làng đã mua 101 cây lim và sử dụng 100 cây lim làm cột, 1 cây chẻ ra làm cán đục và không sử dụng bất cứ một đinh sắt nào. Hiếm có một ngôi đình, đền nào tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc hiên với hàng cột bao quanh như đình Đa Ngưu. Theo truyền ngôn của người xưa: “Đa Ngưu như ngưu ngọa, thất thập nhị tinh phong” (nghĩa là: “Làng Đa Ngưu có dáng trâu nằm, có 72 ông thần đất”), chính nơi giữa làng có địa thế cao đẹp, thoáng mát đó đã xây dựng nên ngôi đình có 100 cột. Ngôi đình gồm 3 tòa là: Tiền đình, trung đình và hậu cung. Mặt trước đình nhìn ra hướng Tây Bắc. Gian trung tâm có nhiều bức đại tự lớn chạm trổ hoa lá long quần. Tòa hai có các hàng cửa võng chạm rồng phượng lộng lẫy cùng bức đại tự “Thánh cung vạn tuế”. Các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, khảm trai được treo ở các cột và trước ban thờ ca ngợi công đức của ba vị thần thờ ở hậu cung là: Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Trước và sau đình có hai giếng Ngọc trồng sen. Những ngày hè hương sen tỏa thơm ngát. Vào ngày hội làng hằng năm (từ ngày 10 đến ngày 12/2 âm lịch), các vị bô lão thường làm lễ tắm rửa cho các ngai trong điện thờ ở hai giếng Ngọc. Phía đông đình là nhà tiên lão-nơi thờ cúng những người có công với nước, phía tây là Khánh Vân Tự. Nghi môn của đình Đa Ngưu được xây dựng theo lối truyền thống của đình, đền vùng đồng bằng Bắc Bộ, gồm 4 trụ biểu tạo thành tam quan. Trụ biểu xây bằng gạch. Hai trụ biểu tại giữa cao, to; hai trụ biểu hai bên nhỏ, thấp. Cả 4 trụ biểu có đỉnh trụ trang trí tứ phượng, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, giữa là ô trang trí câu đối, đế thắt dạng cổ bồng. Giữa hai trụ biểu cao là cổng chính vào đình. Hai bên cổng chính là hai cổng phụ, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Xung quanh đình có tường bao. Sân đình rộng 20m, dài 32m, lát gạch Bát Tràng. Giữa sân có một con đường tạo bởi gạch lát cao hơn so với nền sân xung quanh. Bên trái sân có một tòa Tả vu, là nơi đặt các đồ tế lễ. Đại đình gồm 2 tòa Tiền điện, Chính điện đặt song song với nhau. Tiền điện dài 20m, rộng 7,7m, gồm 5 gian, 4 mái, có hành lang rộng 1,4m bao quanh 3 phía. Tiền điện có cấu trúc của một ngôi đình. Gian chính giữa có sàn thấp gọi là gian lòng thuyền, là nơi tế lễ. 4 gian hai bên đều có sàn cao, là nơi hội họp. Tiền điện có 40 cột, cột cái cao 4,2m, đường kính rộng 0,45m, cột quân cao 3,1m, đường kính rộng 0,35m. Chính hệ thống cột bố trí dọc theo hành lang làm cho đình có số cột nhiều hơn so với các ngôi đình truyền thống khác. Phía trước và hai đầu hồi tòa tiền điện đều có cửa bức bàn cao 2,25m, trên lắp chấn song. Đình Đa Ngưu còn là chứng nhân của những sự kiện lịch sử. Phó Đức Chính (1907 -1930) – một trong những lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng đã đem tổ chức của mình về đây gây dựng cơ sở chuẩn bị chống Pháp. Năm 1929 – 1930, đình Đa Ngưu là nơi diễn ra các cuộc họp để nghe cán bộ Việt Minh tuyên truyền về Cách mạng Tháng Mười Nga… Với những giá trị to lớn về lịch sử văn hóa và kiến trúc, đình Đa Ngưu đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia từ năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2290 lượt xem
Chùa Mễ Sở tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa Mễ Sở nằm cạnh đê sông Hồng, nằm giữa một vùng quê trù phú từ lâu đã nổi tiếng với pho tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Chùa được dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa nhiều lần, các dấu tích hiện còn chủ yếu được trùng tu vào cuối thế kỷ XIX. Duy chỉ có bức tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, còn giữ được tương đối nguyên vẹn. Quan Âm hay Quan Thế Âm có nghĩa là nghe tiếng kêu đau khổ của chúng sinh trong cuộc đời để cứu vớt. Quan Âm có thể hóa hiện thành muôn nghìn hình khác nhau để thích ứng với mọi hoàn cảnh nhằm cứu độ mọi trường hợp đau khổ. Với một pháp lực và quyền năng vô biên, cùng sự minh triết tuyệt đối với thiên thủ thiên nhãn, người cứu độ hết thảy. Tượng được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền với kích thước khá lớn. Từ chỏm tới mặt ngồi cao 1,4m, bệ cao 0,53m, tòa sen cao 0,23m, với khuôn mặt thanh thoát, thuần hậu, thân hình thon thả, tạo nên một pho tượng đẹp cả về nội dung và hình thức thể hiện. Tượng có hai đôi tay chính, đôi thứ nhất chắp trước ngực, mang ấn “chuẩn đề“, đôi tay còn lại đưa lên phía trên đỡ các đài sen và tượng Phật nhỏ. Các đôi tay lớn ít nhiều có nét mềm mại uyển chuyển, các cánh tay tròn lẳn, đế trần được chắp vào ờ hai cạnh sườn trong tư thế cao thấp khác nhau. Độ mở của các cánh tay vừa đủ cao mà không che khuất pho tượng. Ngay sát phía sau tay lớn là hệ thống tay nhỏ với hàng trăm tay mắt được kết thành 10 lớp mọc theo từng cặp cân xứng. Mười lớp tay mắt này lại được chia làm 3 phần lớn, tạo cảm giác như có ánh hào quang tỏa ra từ đầu tượng. Phía trên đầu tượng ở mũi hào quang chạm nổi hình đám mây với những cánh tay nhỏ đan đều như những cánh chim trong tư thế bay xuống. Con chim này đã tránh cho vầng hào quang nét “vô duyên” của tạo hình, gợi mở cho người xem trí tò mò về Phật pháp. Các tay nhỏ của tượng được thể hiện với những cánh tay dài thon thả, các mắt được đặt trong lòng bàn tay kết ấn cam lộ, các cánh tay này dài ngắn khác nhau theo độ mở dần lấy đầu tượng làm trung tâm, khiến chúng như mang một chức năng kết hợp tạo thành hào quang… Cùng với phần đài sen, bệ tượng, tất cả tạo nên một pho tượng hoàn chỉnh với những đường nét điêu luyện tỉ mỉ. Quan niệm vẻ đẹp đương thời đã được các nghệ nhân gửi gắm vào pho tượng với những đường nét thanh thoát, phúc hậu cho khuôn mặt và dáng tượng. Đây là một trong những pho tượng gỗ tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỳ XIX. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Mễ Sở là niềm tự hào của điêu khắc tượng Việt, mang nhiều nét sáng tạo mà vẫn phản ánh được tinh thần nhân ái của đạo Phật và tâm hồn Việt Nam. Chùa Mễ Sở được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2498 lượt xem
Đền Ngò thờ Hai Bà Trưng, Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà. Đền được ông cha ta kiến tạo ngay đầu làng trong một khuôn viên thoáng rộng, đón gió bốn phương, cảnh sắc hài hoà, thâm nghiêm, tráng lệ. Mặt trước đền có hồ sen hình bán nguyệt, in hình bức bình phong lớn có dáng cuốn thư lượn hình cờ kiếm và long, ly, qui phượng. Trước cổng đền là hai cột trụ to, cao vuông vức khắc ghi hai hàng câu đối: - Phong Quận cựu binh uy vạn cổ anh thanh kinh Bắc địa. - Hương viên lưu hiển tích thiên thu linh ứng trần Nam bang. Đại ý là: (Chiến công của nghĩa quân Châu Phong vang trời đất Tiếng thơm của Hai Bà lừng lẫy đến muôn đời) Tiếp đó là hai lầu tượng, trong đó tạc hình đôi voi chiến - Hai Bà cưỡi voi ra trận. Bên trong Đền có hoành phi, câu đối, bài vị, đồ tế tự… đều sơn son thếp vàng choáng ngợp sắc mầu. Hậu cung có hai ngai thờ cổ, tượng Hai Đức Vua Bà ngự trong khám lớn. Tượng cao chừng hơn một mét, đường nét điêu khắc tinh xảo, độc đáo. Với tư thế vươn nên phía trước, hai cánh tay tượng giơ cao ngang tầm mắt, dấu hiệu của chữ Tràng Khoát, dụ trước ba quân, giữ vững sơn hà. Tượng Hai Bà lồng lẫy trong bộ lễ phục màu hồng, toả ánh hào quang lung linh đèn nến. Đền Ngò hiện còn lưu giữ được 18 sắc phong qua các triều đại từ thời Lê Cảnh Hưng. Đó là những văn liệu vô cùng quý giá. Tháng 8-1945, Đền Ngò là nơi diễn ra cuộc mít tinh lớn sau khi cướp chính quyền huyện Văn Giang tuyên bố chấm dứt chế độ cũ, chính quyền mới về tay nhân dân. Nhiều năm tháng trôi qua, sau bao lần trùng tu, tôn tạo, đền Ngò vẫn giữ được vẻ cổ kính năm xưa. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp công nhận Đền Ngò là di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia, được Nhà nước bảo vệ. Địa danh lịch sử Đền Ngò mãi mãi gắn liền với địa danh lịch sử Đồng Chầu, Giếng Da, Bãi Yến. Những địa danh đó đã đánh đấu những kỳ tích lớn lao của một thời kỳ lịch sử, ghi nhận công sức của người Phụng Công theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Đình Đầu được xây dựng cùng thời với Đền Ngò và đồng thờ phụng Hai Bà Trưng - Người anh hùng dân tộc. Đình Đầu to, đẹp, lộng gió đồng quê, cổ kính, rêu phong, trải sắc mầu năm tháng. Cổng đình lồng đèn thao rủ, hai hàng câu đối nhắc nhở hậu thế trân trọng nếp nề. Đao đình uốn lượn cong lên hướng về tam sơn theo kiểu tứ linh chầu nguyệt bao trùm khu tiền lễ và hậu cung. Gian giữa khu tiền lễ bầy hương án, có đỉnh hạc, lư hương… Trên cao treo cửa võng sơn son thếp vàng. Bốn bức hoành phi rộng khắp các gian đình, mang 4 hàng chữ: Trưng Thánh Vương điện Vạn cổ anh linh Thăng long định đỉnh Chính khí quang minh Tất cả đã khái quát vẻ thiêng liêng thành kính của ngôi đình. Hai bên khu tiền lễ là hai hàng Bát bửu, gươm vàng uy nghi, trang trọng. Hậu cung có tượng Hai Đức Vua Bà tạc bằng đá quý theo mẫu hình Quốc gia ở đền Đồng Nhân – Hà Nội. Quanh đình có nhiều cây cổ thụ tràn trăm năm tuổi, toả bóng mát cùng ngôi đình trầm mặc ghi dấu ấn thời gian. Những năm đầu hoà bình lập lại và những năm chống Mỹ, đình Đầu là địa điểm tổ chức nhiều kỳ Đại hội Đảng bộ cấp xã, nhiều Hội nghị quan trọng của huyện Văn Giang. Năm 1970 cũng tại đình Đầu, Bộ y tế nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã tổ chức Hội nghị cán bộ lãnh đạo ngành Y toàn miền Bắc do Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch chủ trì quyết sách những chủ trương lớn về y học trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Đình Đầu có 18 sắc phong qua các triều đại và cũng bắt đầu từ thời nhà Lê. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp bằng xếp hạng công nhận đình Đầu là di tích lịch sử, văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2455 lượt xem
Chùa Phú Thị tọa lạc trên một khuôn viên rộng, nằm phía ngoài và sát ngay chân đê sông Hồng, thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh” (丁), cửa nhìn về hướng Tây Nam và có tên Hán là Hưng Phúc Tự. Chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê và theo hệ phái Bắc Tông. Chùa đã được trùng tu nhiều lần và lần gần đây nhất là vào năm 1991. Bước chân vào thăm chùa, đầu tiên du khách sẽ đi qua tam quan - cổng phía ngoài chùa. Nhìn bên ngoài tam quan như 3 kiến trúc riêng biệt với ba cửa. Cửa giữa cao to, được xây hai tầng, mặt bằng hình vuông. Tầng trên và tầng dưới bằng nhau. Trên nóc tầng hai lợp ngói mũi hài với bốn đầu đao tỏa ra bốn hướng. Hai bên tả hữu là hai cửa nhỏ đối xứng. Ngay sau hai cửa nhỏ này là các bậc dẫn lên tầng hai của cửa giữa. Đi qua tam quan là tiền đường (Thượng điện). Nhìn bên ngoài, tiền đường được xây dựng theo kiểu chồng diêm với hai gác chuông và trống ở nóc mái nhà. Chuông chùa (Đại hồng chung) được đúc vào thời vua Minh Mạng. Vào bên trong, du khách sẽ thấy tiền đường gồm năm gian với không gian rộng và thoáng. Bốn hàng cột lim đều đặn được phân bổ ở giữa tiền đường. Trên xà ngang trung tâm tiền đường được bài trí một của võng chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt và được sơn son thếp vàng. Giáp tường phía trong đặt 6 pho tượng là tượng Khuyến Thiện, tượng Trừng Ác, tượng hai thánh Tăng, tượng hai Thị Giả. Những bức tượng này làm tăng thêm vẻ uy linh của tiền đường. Bên cạnh đó chùa có nhiều pho tượng cổ bằng gỗ hoặc đất nung phủ sơn, như tượng Chuẩn Đề, tượng Địa Tạng (cao 1,08m); bộ tượng Thập Điện Minh Vương (cao 0,90m), tượng Cấp Cô Độc (cao 1,07m). Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Theo quyết định số 14 ngày 4 tháng 4 năm 1984. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2589 lượt xem
Đình Mai Viên thuộc thôn Mai Viên, xã Song Mai - một xã có địa bàn rộng, đông dân cư và phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của huyện Kim Động. Mai Viên được hiểu trong đó “Mai” làng đẹp như một vườn mai, “ Viên” làng có nhiều quan chức, viên chức. Theo thần tích và sắc phong và truyền ngôn lại trong dân, đình thôn Mai Viên được khởi dựng khá sớm vào thời Hậu Lê với quy mô còn nhỏ bé. Đình tọa lạc trên một gò đống cao ráo thoáng mát,cảnh quan đẹp, thuận tiện cho việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Mặt tiền quay về hướng Đông Nam, phía trước đình là cây đa giếng nước cổ kính có niên đại hàng trăm năm, sân đình được bao phủ bởi tán cây bàng, nhãn mát mẻ. nhìn toàn bộ bên ngoài cho ta cảm thấy dự uy nghi và tôn kính bởi vẻ đồ sộ và cổ kính của ngôi đình làng. Di tích đình Mai Viên được xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ I (chữ công) nhưng mất phần hậu cung và 2 nhà chè. Nay di tích còn lại một nhà tiền tế đồ sộ vừa được nhân dân sửa chữa, mái lợp ngói mũi phẳng, đầu hồi 2 bên nóc đình được đắp hai đầu kìm đội lân. Trải dài phần nóc nghệ nhân đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt uốn thành 3 khúc khỏe mạnh và uy nghi. Kiến trúc đình Mai Viên cao ráo bề thế, kết cấu vì kèo nóc từ đầu đến phần mái theo kiểu chồng rường đấu xen, hệ thống con gường đỡ hoành chạm nổi hình lá lật cách điệu. Do những biến động của lịch sử và xã hội, kiến trúc đình không còn đồng bộ và phải tu bổ nhiều lần vào thời Nguyễn, vì vậy nghệ thuật kiến trúc mang đậm nét thời Nguyễn. Cũng như những ngôi đình ở các xã khác, đình Mai Viên vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vừa là nơi thờ thần hoàng. Theo sắc phong và thần tích thì đình thờ 5 vị thành hoàng làng và 3 vị đức thánh tổ như: Trung Thành Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Cao Mang Đại Vương, Đổng Vĩnh Đại Vương và vị Đức thành tổ có công với dân, dạy dân làng làm nghề nung vôi, đóng gạch, làm nghề thợ xây. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, đình Mai Viên là cơ sở tụ họp của các đồng chí lão thành cách mạng. Năm 1942 phong trào cách mạng phát triển, các cán bộ cách mạng đã về đây để tạo dựng cơ sở. Đình còn là nơi hậu đóng quân của bộ đội huyện cơ sở in ấn tài liệu kháng chiến, đào hầm bí mật ở hậu cung để bảo vệ bộ đội du kích. Trong những năm chống Mỹ, cơ sở còn khó khăn UBND xã Song Mai tạm mượn đình Mai Viên để họp hành tại đây. Đến năm 1988 mới trả cho thôn. Ngày nay, đình Mai Viên còn lưu giữ các hiện vật quý có giá trị lịch sử, văn hóa như: tại đình hiện có một ngai vàng thờ thời Nguyễn, 3 bát hương thời Nguyễn, 2 hòm sắc, 1 giá chúc với 27 sắc phong qua các triều đại, ống hưởng, đài gỗ và một số đồ thờ khác có niên đại muộn, đỉnh đồng 2 chiếc, nến đồng 2 đôi, lục bình một đôi. Năm 1998 đình làng Mai Viên được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhân dân địa phương không chỉ coi đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng mà còn là nơi để mọi người tổ chức ôn lại truyền thống cha ông, các thuần phong mỹ tục, nếp sống cộng đồng. thông qua đó là sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, giữa các thành viên trong cùng một cộng đồng để tạo nên mối gắn kết nhân ái, tình làng nghĩa xóm. Ngôi đình là niềm tự hào của nhân dân trong thôn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 2738 lượt xem
Bà Chúa Mụa (1580 – 1648)bà tên thật là Trần Thị Cư, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580) tại làng Mụa, tổng Thiên Thi, phủ Khoái Châu xưa, nay thuộc thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Truyền thuyết kể rằng, vào một ngày kia, chúa Trịnh Tráng xa giá đi qua vùng này, rộn ràng nào ngai, nào kiệu, cờ xí rợp trời, kèn trống vang lừng, dân làng náo nức đi xem. Một cô gái cắt cỏ cạnh đường cái quan vẫn cứ mặc như không hay biết gì. Khi kiệu đi qua, cô không hề nhìn lên, đôi tay thoăn thoắt giật liềm vơ cỏ, miệng hát véo von, trong trẻo: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta Quân lính ngạc nhiên, tiếng hát càng véo von và kiệu chúa từ từ dừng lại. Chúa kéo rèm lên nhác thấy có cô gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, đối đáp thông minh, biết đây là kỳ nữ. Chúa truyền rước cô về kinh thành Thăng Long rồi ban quốc tính, đổi tên là Trịnh Thị Ngọc Am. Bà giúp chúa trông nom việc học tập trong phủ của các cung tần, mỹ nữ, củng cố mối đoàn kết giữa chúa với triều đình nhà Lê. Bà sinh được một người con gái là Trịnh Thị Minh, được chúa ban cho 4 đĩa vàng và 1 đĩa bạc. Chẳng bao lâu công chúa Thụy Minh qua đời, quá đau buồn, bà xin về tu ở chùa làng. Chúa rất quý mến người vợ tài sắc của mình, cho khai con sông nhánh từ sông Cửu An chạy qua làng Mụa để vận chuyển các loại đồ quý về xây tháp. Hàng ngày, bà lên tháp tưởng vọng về phủ chúa ở Thăng Long. Bà đã bỏ tiền ra giúp dân khai khẩn ruộng đất, khai sông dẫn thủy nhập điền. Bà giàu lòng nhân đức hay giúp đỡ mọi người và cầu Phật ban phúc lành cho dân chúng. Tự bà xin lập và tu sửa các chùa chiền quanh vùng và phổ biến lễ cúng Phật. Bà chẳng những có công lớn đại trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bà Trịnh Thị Ngọc Am mất vào tuổi 68, nhân dân tôn bà làm thần và lập đền thờ ngay tại quê hương. Đền Mụa dựng vào thế kỷ thứ 17, trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ “Nhị”. Cổng Tam quan khá đồ sộ, có hai hàng câu đối: Tài sắc song toàn nơi phủ chúa Nghĩa tình trọn vẹn với quê hương Cạnh đó có tòa thư điện nhỏ đặt pho tượng phỗng tạc đá xanh, dáng dấp bụng phệ được thờ bằng bát hương cũng bằng đá xanh chạm chân quỳ, có 3 tai mặt hổ phù. Trước cửa đền đặt tấm bia dựng năm 1634 có ghi: Bà chúa Mụa Trịnh Thị Ngọc Am đệ nhất cung tần vương phủ chúa Trịnh Tráng. Tấm bia thứ hai dựng năm 1650 ghi nhận công lao của bà với dân làng trong việc dựng chùa, đình, đền, miếu… Tại gian trung tâm tòa đại bái có nhang án bằng đá, chạm khắc nổi thành ba bức phù điêu: bức giữa chạm nổi hình trong, hai bên chạm “Long cuồn thủy”, xung quanh chạm hoa văn sóng nước cách điệu, mang phong cách Hậu Lê. Trên hai cột cái tòa đại bái có hai hàng câu đối ca ngợi tài đức của Bà: Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà Tích đức tu nhân, chúa cung sùng đạo Phật Gian hậu cung đặt tượng bà chúa Mụa. Năm 1634, chúa Trịnh Tráng cho tạc tượng bà bằng đá khi đang sống. Tượng to bằng người thật ngồi trên tòa sen, đầu đội vương miện, chạm nổi hình Phật Tổ Như Lai, tai đeo bông hoa to, chân xếp bằng kiểu người ngồi thiền. Phía trước tượng bà chúa là tượng Quận Công bằng đá, ngồi xếp bằng tròn, mặc áo bào. Hai tòa hai bên thờ tượng Thị Vệ và Kim Đồng chầu bà chúa, thân chạm nổi áo gấp. Sau hậu cung là tòa Cửu phẩm liên hoa, đặt nậm đá đế hoa sen, dưới chạm tượng bà chúa lúc về già. Ngày 08/6/1963 trong khi làm thủy lợi sông cầu Ngàng dân công đã đào được 4 đĩa vàng, 1 đĩa bạc của Chúa Trịnh Tráng ban thưởng cho con gái, ở đáy một đĩa có dòng chữ. “Thụy Minh công chúa kim phụ lai bát tinh công chúa” (chén bạc của cha ban cho con, Thụy Minh công chúa). Từ những giá trị trên, đền Bà Chúa Mụa được Bộ văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích “Nghệ thuật” cấp Quốc gia số 2233-Quyết Định/Bộ Văn hóa Thể Thao ngày 26/6/1995. Đặc biệt, ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2283/Quyết Định - Thủ Tướng, công nhận Sưu tập đĩa vàng hoa sen Cộng Vũ (đền Mụa, xã Vũ Xá) có niên đại thế kỷ XI – XII là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 1538 lượt xem
Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành xã Vĩnh Xá. Đào Xá là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo Phật và một nhà thờ của đạo Thiên chúa giáo. Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động, được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh. Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão. Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo tên thôn: Đền Đào Xá. Chữ Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy. Thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân, đền Đào Xá là một trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức tại đền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt, vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào, khi thì đóng vai người đến đền cúng lễ, khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà. Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho xí nghiệp Dược phẩm. Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát hương… Đền Đào Xá, xã Vĩnh Xá được Nhà nước xếp hạng di tích “Lịch sử và nghệ thuật” cấp Quốc gia theo Quyết định số 570, tháng 9/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Hưng Yên 1673 lượt xem
Đình Thanh Sầm toạ lạc trên khu đất cao ráo, thoáng đãng tại thôn Thanh Sầm, xã Đồng Thanh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Theo thuyết phong thuỷ, đình toạ lạc trên thế đất hình “đầu rồng”, phía trước là một hồ nước lớn, bao bọc quanh đình là con đường lớn tựa “lưng con xà”, tạo nên nét đẹp không gian cho ngôi đình cổ. Với địa thế đó, đình Thanh Sầm được xem như đặt trong thế “đắc địa”, con cháu được hưởng phúc lộc dài lâu. Đình Thanh Sầm là nơi tôn thờ Nhị vị Thành hoàng làng: Hướng Thiện Ninh Quốc Đại vương (Phạm Thiện) và Đạo Quang Vĩnh Yên Đại vương (Phạm Quang) thời vua Hùng Vương. Hai vị có công giúp các vua, các tướng dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Không chỉ vậy, đình Thanh Sầm cùng những di vật còn lưu giữ được tại di tích là nguồn sử liệu vô cùng quý giá trong việc nghiên cứ sự hình thành và phát triển của làng Thanh Sầm. Đình Thanh Sầm có bố cục mặt bằng tổng thể kiểu “Tiền Nhất hậu Đinh” gồm: 05 gian Đại bái, 05 gian Trung từ và 02 gian Hậu cung. Các cấu kiện kiến trúc đều được làm hoàn toàn từ vật liệu gỗ tứ thiết còn đồng bộ, chắc khỏe, bền vững với nhiều mảng chạm khắc đẹp, mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Nguyễn. Các mảng chạm thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: Tứ linh, tứ qúy, tùng lộc, chim trĩ, lá lật, vân xoắn, cá chép... Tất cả đã phản ánh được tính mỹ thuật cao, tài năng sáng tạo của người nghệ nhân đương thời. Tại đình còn bảo lưu được một số di vật tiêu biểu có giá trị như: Sắc phong (thời Nguyễn), thần tích, đại tự, câu đối, ngai và bài vị, kiệu thờ,... Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Thanh Sầm đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (tại Quyết định số 887/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 15 tháng 4 năm 2022). Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.
Hưng Yên 1462 lượt xem
Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Ðôn thuộc thôn Ðồng Phú, xã Ðộc Lập, huyện Hưng Hà là nơi lưu giữ, bảo tồn những hiện vật, dấu tích từng gắn bó với nhà bác học - danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Lê Quý Đôn tên thật là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ngày mùng 5 tháng 7 năm Bính Ngọ, tức là ngày mùng 2 tháng 6 năm 1726 ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Đồng Phú xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu Tiến Sĩ làm quan đến Thượng Thư bộ Hình tước Hầu. Thân mẫu là Trương Thị Ích, con gái Tiến sĩ Trương Minh Lượng, làm quan Hoằng phái hầu. Thủa nhỏ Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là thần đồng, năm 1739 theo cha lên kinh đô theo học thày là tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Năm 18 tuổi thi Hương đậu giải nguyên, sau ở nhà dạy học và làm sách. Năm 27 tuổi thi Hội đỗ đầu, thi Đình đỗ Bảng Nhãn. Lê Quý Đôn lần lượt làm việc tại Viện Hàn lâm, Ban Toản tu quốc sử, đi Liêm Phóng tham gia việc binh, đi sứ Trung Quốc, làm việc tại phủ Chúa Trịnh… được thăng dần các chức Hàn Lâm viên chỉ, Tư nghiệp Quốc tử giám, Bồi tụng, Quốc sử tổng tài, Hiệp trấn … Năm 1784 được thăng Thượng Thư bộ Công, tước Nghĩa Phái hầu, cũng năm đó ông bị bệnh về nhà dưỡng bệnh tại quê ngoại là làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc tỉnh Hà Nam) ông mất tại đây ngày 14 tháng 4 âm lịch thọ 58 tuổi. Vợ ông là bà Lê Thị Trang con gái thày học Lê Hữu Kiều, ông có bốn con trai là Quý Kiệt, Quý Tá, Quý Châu, Quý Nghị. Sự nghiệp sáng tác của Lê Quý Đôn rất đồ sộ, ông đã làm khoảng 40 đầu sách các loại bao gồm hầu hết các tri thức đương đại như lịch sử, thơ văn, triết học, chú giải kinh điển, tổng loại… là kho tàng quý của nền học thuật nước nhà. Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn bao gồm ba công trình: Từ đường danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn, lăng mộ Lê Trọng Thứ (thân phụ Lê Quý Đôn), hồ Lê Quý. 1. Từ đường danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn Từ đường bao gồm tòa Bái đường năm gian, toà Trung đường và Hậu cung mỗi toà ba gian.Tiền thân Từ đường xưa là nhà ở của Lê Quý Đôn, khi phụ thân mất, Lê Quý Đôn mới cải thành từ đường, đến đời Lê Quý Kiệt đưa thêm cả bài vị Lê Quý Đôn về cùng ông nội. Dân địa phương quen gọi nơi đây là từ đường Bảng nhãn Lê Quý Đôn. 2. Lăng mộ Lê Trọng Thứ. Lê Trọng Thứ (1693 - 1783), là quan đại thần thời Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là thân phụ nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến Lê Quý Đôn. Lê Trọng Thứ, hiệu Trúc Am tiên sinh, lúc nhỏ học hành rất sáng dạ, nổi tiếng là thần đồng, lớn lên theo học cụ Thám hoa họ Vũ ở Hà Nam. Năm Lê Trọng Thứ 27 tuổi đỗ hương tiến, năm 31 tuổi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái thứ năm (1724), triều vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương, làm quan thanh liêm nổi tiếng trong ngoài, năm 65 tuổi về nghỉ với chức Hộ bộ Hữu thị lang. Ít lâu sau lại được mời ra làm quan lần thứ hai thăng đến chức Thượng Thư bộ Hình, rồi về nghỉ hưu ở tuổi 80. 3. Hồ Lê Quý. Năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765) , ông xin triều đình trở lại quê nhà “đóng cửa viết sách”. Để thư thái, có điều kiện để đọc sách và viết sách, Lê Quý Đôn cho đào một chiếc hồ lớn. Giữa hồ cho đắp một đảo nhỏ, trồng cây cảnh, xây một Thư Lân. Thời gian này ông viết nhiều sách “đặc biệt chú trọng đến địa lí” như : Địa lí tinh ngôn, Địa lí tuyển yếu… Có thể cả chương hình tượng và sản vật trong bộ Vân Đài loại ngữ cũng được chuẩn bị tài liệu từ thời kì này . Khu Lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1986. Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Thái Bình
Hưng Yên 3589 lượt xem
Đền Thiên Hậu (Thiên Hậu thượng phố) nằm trên đường Trưng Trắc - phường Quang Trung - Thị xã Hưng Yên. Đền được xây dựng năm 1640 do 14 dòng họ người Trung Quốc ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến quyên góp tiền của xây dựng nên. Đền Thiên Hậu thờ bà Lâm Tức Mặc, theo “Đại Nam nhất thống chí”, bà là một vị thần biển. Lâm Tức Mặc sinh ngày 23.3 (âm lịch) là con gái thứ 6 của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Tương truyền khi Lâm Tức Mặc ra đời có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ. Lâm Tức Mặc rất thông minh, năm lên 8 tuổi đi học tiên, luyện đơn thành chính quả, có thể hô mưa gọi gió, dùng phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Khi dân tình mất mùa đói kém bà tìm ra rong biển ăn thay gạo, mì, mạch, nhờ vậy dân tình không còn đói khổ. Bà tìm ra một thứ dầu ma mộc, phun xuống đất mọc cây cho hạt ăn thay lúa gạo... Đến ngày 9.9 âm lịch bà không bệnh mà hoá. Sau khi hoá Bà thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển cứu giúp tàu thuyền qua lại. Người Phúc Kiến tôn bà làm thần Hàng Hải, ở đâu có người Phúc Kiến thì ở đó có đền thờ bà. Khi di cư đến Phố Hiến, người Phúc Kiến đã lập đền thờ Bà ở phố Bắc Hoà (nay là phố Trưng Trắc). Đền Thiên Hậu là công trình mang đậm màu sắc kiến trúc Trung Hoa trên nhiều hạng mục như: cổng nghi môn, nhà thiêu hương, mái, đao góc và cách kết cấu vì kèo. Tương truyền đền được làm ở Trung Quốc rồi mới mang sang Phố Hiến cất dựng. Nghi môn dựng giống như một ngôi nhà, mái lợp ngói ống, kiến trúc các bộ vì kiểu chồng rường, hệ thống cánh cửa khắc hình quan văn võ và người theo hầu. Thềm được lát bằng những tấm đá cuội trải qua mưa gió hàng mấy trăm năm vẫn không mòn. Phía trước nghi môn có đôi nghê chầu: con đực ngậm ngọc, con cái ôm con bú, chất liệu bằng đá hoa cương, tạo tác rất sinh động. Hai con nghê đá nói lên quan niệm sống của người Trung Hoa: được của và được con là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời. Khu nội tự xây kiểu chữ đinh gồm nhà thiêu hương và hậu cung. Nhà thiêu hương dựng chồng diêm 2 tầng 8 mái, mái lợp ngói ống, đường bờ nóc trang trí đức phật ngồi trên toà sen, xung quanh người qua lại. Toàn bộ hệ thống vì được kết cấu theo hình thái đặc biệt với từng chủ đề và tích truyện Trung Quốc như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Ngoài ra, ở đây còn trang trí các loại hoa dây, bát mã quần phi, cảnh bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc kiểu “chồng rường cánh”, trên các đầu dư chạm thành hình cá chép. Gian hậu cung ngoài thờ Lâm Tức Mặc còn gian trong thờ cha mẹ, anh em ruột của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền. Hằng năm, Đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23 tháng 3 và ngày 9 tháng 9 (âm lịch) để kỷ niệm ngày sinh và ngày hoá của Lâm Tức Mặc. Đông đảo các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến và người Việt về tế lễ. Trong lễ hội tổ chức rước kiệu linh đình, lễ vật có bánh rong câu, bánh rùa, bánh Tô Châu… là những sản vật truyền thống của người Trung Hoa. Đền Thiên Hậu là một trong số rất ít công trình kiến trúc cổ của người Trung Hoa ở Phố Hiến còn bảo lưu tới ngày nay. Với mục đích gìn giữ và tuyên truyền quảng bá tới đông đảo quần chúng nhân dân, tỉnh Hưng Yên cho trùng tu Đền Thiên Hậu khang trang sạch đẹp và năm 1992 đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Báo Hưng Yên điện tử
Hưng Yên 2581 lượt xem
Đền Tiên La tọa lạc trên diện tích gần 6000 m2, tại gò Kim qui, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đền Tiên La với kiến trúc cổ “Tiền nhất”, “Hậu đinh” từ cột kèo đến đao mái uốn cong với kiểu dáng Lưỡng long chầu nguyệt; mặt trước Đền hướng ra sông Tiên Hưng, gần ngã ba đổ ra sông Luộc, bao quanh Đền là những rặng cây xanh sum suê, tỏa bóng. Đền Tiên La được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 12/11/1986. Ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Bát Nạn công chúa, đại tướng quân Đông Nhung là tước hiệu Trưng Vương phong cho Thục nương (Vũ Thị Thục) khi đánh thắng quân Hán. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương dân lại ưa binh đao, võ nghệ nên bà đã ngầm lo việc cứu nước giúp dân. Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp thống lãnh quân tiên phong. Nghĩa quân chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, lấy hiệu là Trưng Vương. Đền Tiên La có các công trình chính như: Tam quan ngoại, Tam quan nội, Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Qua tam quan ngoại, sân Đền là tam quan nội, hai bên có Lầu cậu, Lầu cô; đi tiếp sẽ đến nhà Tiền tế gồm 5 gian, được kiến trúc bằng gỗ tứ thiết, nội thất được trạm trổ công phu với các hoa tiết như: “Long - Lân - Quy - Phượng ” đan xen “Thông - Trúc - Cúc - Mai ”. Tại đây còn có những đại tự với nội dung ca ngợi triều Trưng Vương và đức hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nạn. Kế tiếp là nhà Trung tế được xây dựng theo kiểu nhà phương đình, kiến trúc “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng nhà đều bằng đá; toàn bộ hệ thống cột, kèo được chạm khắc rất tinh xảo, trong đó 4 cột cái chạm tứ linh; 12 cột quân chạm long vân; 8 xà chạm thông, trúc, cúc, mai; sườn cột và 8 kèo đá chạm điểm băng hoa dây và chữ Triện; đi sâu vào bên trong là hậu cung được kiến trúc bằng gỗ thứ thiết, gồm 3 gian, trong đó gian giữa là ngai và tượng thờ Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ của Bà. Trên nóc hậu cung treo bức đại tự “Vạn cổ anh linh ”. Tương truyền, đây còn là nơi đặt mộ của bà Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục. Cùng với kiến trúc đặc sắc, Đền Tiên La còn lưu giữ nhiều đồ tế khí, đồ thờ có niên hạn từ thời Trần, Lê; Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão). Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình
Hưng Yên 3595 lượt xem
Đền Lưu Xá là nơi thờ phụng hai danh nhân lịch sử thời Lý (Thế kỷ XII - XIII) là Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba. Chùa Báo Quốc là tên gọi của vua Lý đặt cho để tỏ lòng trọng vọng các quan đại thần có nhiều công lao giúp bốn triều vua Lý (Thái Tông - Thánh Tông – Nhân Tông – Thần Tông) xây dựng đất nước thịnh trị thời đó. Di tích đền Lưu Xá và chùa Báo Quốc liên quan chặt chẽ với nhau, hình thành cụm di tích vì đều chung một sự kiện lịch sử. Ngôi đền và chùa nằm gần nhau ở đầu thôn Lưu Xá – xã Canh Tân – huyện Hưng Hà – tỉnh Thái Bình. Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba là hai anh em khác mẹ, thân phụ của các ông là cụ Lưu Ngữ - Quê ở quận Cửu Chân (nay là xã Thiệu Trung – Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Cụ Lưu Ngữ được làm quan đời tiền Lê (Hai triều vua Lê Hoàn và Lê Long Đĩnh) cai quản vùng đất ngã ba sông này. Nhận thấy đất Lưu Xá lúc ấy sau sông trước đầm, sông nước quanh co thế “Rồng chầu hổ phục” bèn lập cung ở đó rồi lấy vợ người bản quán. Lúc đầu lấy bà Trần Thị Ngọc, bà gần 40 tuổi mà chưa có con, cụ lại lấy bà họ Phạm. Sau đó hai bà mang thai và sinh con trong cùng một ngày chỉ khác là người sinh giờ Dần, người sinh giờ Ngọ, anh là Lưu Khánh Đàm, em là Lưu Khánh Điều (Lưu Ba). Cụ Lưu Ngữ lại đưa người thân từ quê ra ở đất Lưu Xá. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra vương triều Lý, các con của Lưu Ngữ sớm được tập ấm, nhập triều. Cả hai anh em đều làm quan đồng triều. Triều Lý vừa lập, giặc từ phương nam lấn tới, Lưu Khánh Đàm được vua Lý Thái Tổ giao cùng các tướng cầm quân đánh giặc, bắt sống vua nước Chiêm là Bố Hợp đem về. Phía Nam vừa yên thì phía Bắc giặc Tống lại lăm le lấn tới. Ông đã tâu với vua: “Mong bệ hạ đừng lo, sa giá bệ hạ thân chinh đế thị uy bốn biển, ngoài cõi, thần và nghĩa đệ cùng các tướng sỹ lo đánh giặc” thời Lý 3 lần giặc Tống vào đánh chiếm nước ta đều bị quân dân ta đánh bại. Thái Tổ xét Lưu Đàm là người đánh nam dẹp bắc, lại có “thiện kế” (kế giỏi), xướng xuất việc rời đô lên phong ông làm Thái Phó khai quốc công thần, giao cho ông dạy bảo thái tử Phật Mã. Thái Tổ mất, Thái Tông lên ngôi, Lưu Khánh Đàm tâu xin vua miễn phu dịch và thuế cho dân làng Lưu Xá. Khi Thái Tông băng hà, Thánh Tông lên ngôi phong cho Lưu Khánh Đàm làm Bình Chương sự, cuối đời Lưu Khánh Đàm về Lưu Xá sửa lại chùa làng và tu ở đó. Khi ở làng, cùng với sư Giác Hải, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tổ chức cho dân “Khai thông sông Luộc”, “Móc ruộc sông Sinh”, “Đào phình sông Hóa” ở Thái Bình. Khi ông mất vua Thánh Tông về dự lễ an táng, vì ông là khai quốc công thần nên vua ban tên chùa nơi ông tu hành là “Báo Quốc Tự”, ban cho ông tước vương, ban mĩ tự là “Chính trực chiêu cảm”, lại cho xây một tháp cao 9 trượng, 9 tầng ở bên lăng của Lưu Đàm vương. Dân làng Lưu Xá cảm ơn xây đền thờ và tôn ông làm Thành Hoàng làng. Lý Nhân Tông lên ngôi ban cho ông bốn chữ đẹp “Hiển ứng linh thông”, các triều sau đều có sắc phong thần cho ông. Đền thờ ông (đền Lưu Xá) và chùa Báo Quốc đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1990. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình
Hưng Yên 5114 lượt xem
Chùa Keo (Thần Quang tự), thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Theo tư liệu lịch sử, năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) đời Lý Thánh Tông dựng chùa Nghiêm Quang trên đất Giao Thuỷ (làng Keo/ấp Keo), thuộc Nam Định ngày nay. Tháng 3 năm Đinh Hợi, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) đời Lý Anh Tông, chùa này được đổi tên thành chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611), một trận lụt lớn làm chùa bị trôi dạt, dân ấp Keo phải di dời đi 2 nơi: một bộ phận định cư ở phía Đông Nam - hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định); một bộ phận định cư ở phía Đông Bắc - tả ngạn sông Hồng (nay thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Như vậy, sau năm 1611, làng Keo (gốc ở Nam Định) được chia thành hai làng. Sau đó, hai làng dựng lại chùa, tên Nôm đều gọi là “chùa Keo”. Để phân biệt, dân gian thường gọi chùa Keo ở Thái Bình là Keo Thái Bình hoặc Keo trên; chùa Keo ở Nam Định là Keo Nam Định hoặc Keo dưới. Chùa Keo Thái Bình được dựng năm 1632, tên chữ là Thần Quang tự. Ngoài chức năng thờ Phật, chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh Dương Không Lộ và những người có công lớn trong việc dựng. Chùa Keo (Thái Bình) thường mở hội 2 lần trong một năm. Hội xuân được tổ chức ngày mùng 4 tháng Giêng, mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Chùa Keo Thái Bình gồm 21 hạng mục lớn, nhỏ (154 gian). Trải qua trên 300 năm, chùa đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941, 1957, 2004. Xét về quy mô, bố cục, đặc điểm và nghệ thuật kiến trúc, có thể coi chùa Keo (Thái Bình) là một trong những công trình sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng như dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam. Các hạng mục kiến trúc chính của di tích gồm: Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột, mái lợp ngói mũi hài. Tam quan nội ở phía sau hồ nước (hình vuông), khung gỗ, gồm 3 gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Chùa thờ Phật được dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà (chùa Hộ/chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo). Đền Thánh được dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3 tòa: Thiêu hương (5 gian), Ống muống (3 gian), Thượng điện (5 gian). Phía trước đền là toà Giá roi (5 gian). Gác chuông được làm theo dạng thức chồng diêm cổ các, gồm có 3 tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Hai dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh, phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều được dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian. Với những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng chùa Keo là Di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc - Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hưng Yên 3337 lượt xem
Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần thuộc phủ Long Hưng xưa, là vùng đất có vị thế địa lý - kinh tế - chính trị - văn hóa đặc biệt quan trọng, gắn với nhiều sự kiện lịch sử thời Trần và lịch sử dân tộc, là hậu phương, nền tảng vững chắc, để nhà Trần thay thế vai trò chính trị của nhà Lý. 1. Khu lăng mộ Vùng đất Long Hưng vốn là nơi dựng nghiệp của nhà Trần, vì thế đã được triều Trần đặc biệt chú trọng, phân phong cho các thân vương. Nơi đặt mộ tổ của họ Trần tại hương Tinh Cương (nay thuộc thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) tiếp tục được lựa chọn làm nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều và hoàng tộc nhà Trần: Thái tổ Trần Thừa táng tại Thọ Lăng; Thái Tông táng tại Chiêu Lăng, Thánh Tông táng tại Dụ Lăng, Nhân Tông táng tại Đức Lăng. Sau khi Thái Tổ Trần Thừa mất, hương Tinh Cương chính thức được đổi tên thành Thái Đường (khu lăng tẩm của vua và hoàng tộc). Khu lăng mộ các vua Trần hiện nay có tổng diện tích 38.221m2, được nhân dân gọi là Phần Đa, Phần Trung, phần Bụt, tương ứng với Chiêu lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng - nơi yên nghỉ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và 01 ngôi đền thờ Thượng hoàng Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Cả ba lăng mộ đều đã được tôn tạo vào năm 2004. 2. Khu đền thờ Hiện nay, khu đền gồm các hạng mục: đền Vua (ở giữa), đền Thánh (ở phía Đông, bên tả đền Vua) và đền Mẫu (ở phía Tây, bên hữu đền Vua). Ba kiến trúc này đều quay hướng Nam, hướng về khu vực lăng mộ, được bố trí dàn hàng ngang, có chung sân lễ hội, đường nghi lễ, cửa chính (Ngọ môn). Đền Vua: được xây dựng với diện tích 6.498m2, nơi thờ ba vua đầu triều Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), phối thờ Thượng hoàng Trần Thừa và các vị cao tổ, tằng tổ nhà Trần là Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, cùng hai người có công mở nghiệp nhà Trần là Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ. Đền quay hướng Nam, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, giếng ngọc, cổng sang đền Thánh, đền Mẫu, cổng vào phía sau đền, tiền tế, trung tế, hậu cung và hai tòa giải vũ. Đền Thánh: được xây dựng theo dạng thức truyền thống, diện tích 6.011m2, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, lầu chiêng, lầu trống, tiền tế, phương đình, trung tế, hậu cung và giải vũ… Đền là nơi thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, phu nhân Nguyên Từ Quốc mẫu và hai con gái là Quyên Thanh Quận chúa, Đại Hoàng Công chúa. Đền Mẫu: thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu triều Trần, tổng diện tích 6.228 m2, với các hạng mục: giếng ngọc, bình phong, sân tế, giải vũ, tiền tế, trung tế và hậu cung… 3. Khu di tích khảo cổ học nhà Trần Khu di chỉ khảo cổ học Tam Đường (thời Trần), xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đã được khai quật khảo cổ nhiều lần, phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, với niên đại từ thời Lý đến Nguyễn, đặc biệt là nhóm hiện vật thời Trần,… minh chứng cho giá trị và sự tồn tại của di tích qua các thời kỳ lịch sử. Giá trị lịch sử - văn hóa của di tích còn được biểu hiện qua lễ hội truyền thống, được tổ chức thường niên tại khu vực đền thờ các vua Trần từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hưng Yên 3866 lượt xem
Đền thờ Bà Chúa Muối (tức đền thờ Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh) là vợ Ba của vua Trần Anh Tông. Phủ và đền thờ bà Chúa Muối nằm ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sách xưa chép lại: Bà Chúa Muối tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280 tại trang Quang Lang, huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình (nay là xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) trong một gia đình làm nghề muối. Từ thuở nhỏ, bà đã có tài mạo khác thường, chăm đọc sách vở và rất mực thông minh. Mỗi khi học xong Nguyệt Ảnh thường ra đồng giúp bố mẹ làm việc. Nhưng mỗi lần giúp bố mẹ thì bà đi đến đâu trời lại râm đến đấy, trong khi nghề làm muối phải có ánh nắng, nắng càng to thì muối càng đẹp. Lo lắng cho nghề truyền thống và kế sinh nhai của cư dân địa phương, những người cao tuổi trong làng đã họp nhau lại, bàn ra kế đóng cho bà một chiếc thuyền để mang muối đi buôn nơi khác. Trong một lần buôn, thuyền của bà đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long, vừa hay lại đúng vào dịp vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông. Cơ duyên như trời định, xiêu lòng trước vẻ đẹp của bà, vua đã đưa bà vào cung, hết mực sủng ái và cho làm Tam phi. Nhưng không may, bà không sinh được con rồi buồn phiền mà lâm bệnh. Sau đó, vua Trần Anh Tông đưa bà về quê ngoại với hy vọng có thể khiến bệnh tình của bà tiến triển tốt hơn. Thấy bà Chúa chiều nào cũng ngồi bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây quanh nhảy múa để bà vơi bớt nỗi buồn. Một chiều nọ, khi đang nhìn lũ trẻ nhảy múa rất vui, bà cười rồi thoát trần (ngày 14/4 năm Mậu Tuất). Nhà vua hay tin vô cùng thương xót, sắc phong cho bà làm Phúc thần và cho nhân dân lập đền thờ phụng mang tên Đền thờ Bà Chúa Muối. Qua thời gian, đền thờ đã bị hư hại và phá bỏ. Năm 1988, người dân trong vùng tạm xây lại một phủ nhỏ để thờ bà. Năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã khôi phục lại di tích này. Phủ hiện tại có 3 gian, có hậu cung và những hương án bàn thờ, tượng thờ; trong phủ có một số vật dụng đặc thù liên quan đến nghề làm muối như xe cút kít, gáo múc nước chạt, tang, cào muối trên sân phơi… đền Bà chúa Muối hiện còn lưu giữ một bức hoành phi sắc phong thời Trần và hai bộ câu đối cổ. Đền thờ là một công trình kiến trúc đặc biệt kết hợp giữa đền và chùa, tọa lạc trên mảnh đất Trang Quang Lang. Chùa quay hướng Bắc là nơi thờ Đức Phật Thích ca Mâu Ni. Đền quay hướng nam là nơi thờ thánh Mẫu Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà Chúa Muối). Đây là một ngôi đền – chùa đẹp nhất mà trong bia đá năm 1596 có đoạn viết như sau: “Cổ tích Thái Bình hưng quốc tự, bản cổ truyền chi danh lam, bảo Nam bang chi thắng cảnh…” Nghĩa là: “Khu đền chùa Thái Bình Hưng Quốc là nơi danh lam cổ truyền, là địa danh thắng cảnh quý báu nhất dưới trời Nam…” Nguồn: Báo nông thôn Việt
Hưng Yên 5502 lượt xem
Đền Đồng Bằng tọa lạc bên dòng sông Diêm thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay là làng Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền có tên tự là Bắc Hải Linh Từ, nơi thờ Vua cha Bát Hải Động Đình - người có công lao to lớn trong việc bình Thục giữ nước và chiêu dân lập ấp, xây dựng giang sơn xã tắc thuở sơ khai. Đền Đồng Bằng được nhân dân biết đến là một ngôi đền linh thiêng có từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Đền có sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Tục truyền rằng, vào đời vua Hùng Vương thứ 18, nước ta bị giặc ngoại bang xâm lấn, triều đình phải lập đàn để triệu Linh sơn Tú khí về giúp nước dẹp giặc. Khi ấy thủy thần làng Đào Động đã hiện thân phò vua dẹp giặc và có công đầu trong việc trấn giữ tám cửa bể phía Tây. Ngài được sắc phong là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Kể từ đó nơi đây là chốn địa linh được nhân dân bốn phương ngưỡng vọng và lập đền thờ. Vào thế kỉ XIII, làng Đào Động còn là một trong những phòng tuyến quân sự quan trọng của nhà Trần, đây là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến của quân binh. Trước khi ra trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng sĩ đều đến dâng hương cầu nguyện tại ngôi đền. Sau khi mất đi, ông được nhân dân phối thờ tại đây. Kể từ đó, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương và các tướng sĩ nhà Trần trong ba lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên tám trang Đào Động xưa. Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là 6.000m2, gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Bởi những huyền tích, giá trị lịch sử, nghệ thuật mà đền Đồng Bằng được biết đến là ngôi đền linh ứng và bốn mùa hương khói. Đặc biệt, năm 1986 đền Đồng Bằng đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Theo tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần xa. Lễ hội đền Đồng Bằng lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp, là dịp để thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và sự ngưỡng vọng, tôn kính của nhân dân đối với Đức Vua cha Bát Hải Động Đình và tưởng nhớ ngày mất của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình
Hưng Yên 5303 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 12680 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 11624 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9461 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9438 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9046 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 8505 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8469 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8332 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8163 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8043 lượt xem