Di tích lịch sử

Hưng Yên

Đình Triệu Đà

Đình thờ Triệu Đà (thời Triệu Vũ Đế), thôn 10, xã Xuân Quan, huyện Văn Giang. Đình được xây dựng từ lâu, trùng tu thời Nguyễn niên hiệu Tự Đức thứ 24 (1871). Hiện nay còn lưu giữ hiện vật như: Kiệu, bia đá, ngai, tượng thờ. Lễ hội hằng năm từ ngày 14 đến 16 tháng 2 âm lịch. Đình Triệu Đà xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên có tên là “Nam Việt Linh từ”, đến thời Lý Anh Tông mới đổi tên là đình Long Hưng. Đình Triệu Đà mang đậm nét kiến trúc của thế kỷ 17 – 18. Khuôn viên đình rộng rãi, thoáng đãng với diện tích vào khoảng 13000m. Đình được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc, các hạng mục công trình nằm trên một trục đường thẳng trải dài từ cổng đình vào đến hậu cung. Các hạng mục chính của di tích gồm có: cổng ngoài, Nghi Môn, đại bái, hậu cung hạ, hậu cung thượng và hai dãy giải vũ. Mặt tiền đình quay hướng Nam, đó là hướng của trí tuệ, của sự sống. Nghi môn ở đình Triệu Đà khác hẳn so với Nghi môn của rất nhiều tích khác. Nghi môn được làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, các đao đắp đầu rồng và đầu con sô ngẩng cao, mái lợp ngói mũi, đường bờ lóc lưỡng long chầu phật. Phần cổ diêm đắp ba chữ Hán: “Long Hưng Điện” (Điện Long Hưng). Kết cấu kiến trúc Nghi môn kiểu chồng rường đấu sen, bào trơn đóng bén, hai gian bên cạnh đặt hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng nghiêm trang của người đứng gác. Hai bên Nghi môn còn có hai cổng phụ làm theo kiểu hai tầng tám mái, phía bên trong cổng phụ là con đường nhỏ đi vào khu nội tự. Đình Triệu Đà xây một cổng chính và hai cổng phụ như ngày nay có thể nơi đây xưa kia Vua quan trong triều thường về đây tế lễ, cầu đảo điều linh ứng. Qua sân là đến khu nội tự, công trình đầu tiên là tòa đại bái với 3 gian 2 dĩ được xây theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái. Các đao mái hình đầu rồng ngẩng cao. Đầu bờ nóc đắp hai con sô chầu mặt nhật ở giữa nóc. Đại bái được làm kiểu thông phong, hai đầu hồi bít đốc, mặt dưới và sau để trống tạo lên sự thông thoáng cho di tích. Các bộ vì đại bái được kết cấu kiểu chồng rường đấu sen, các con rường, đầu 7 đều được chạm hoa lá cách điệu. Gian giữa đại bái đặt nhang án thờ công đồng, nhang án làm bằng gỗ và được chạm khắc tứ linh, tứ quý. Trên nhang án để các đồ thờ cúng như: bát hương, bộ đỉnh đồng, đôi lục bình…Hậu cung đình Triệu Đà bao gồm ba gian hai dĩ, mái lợp ngói mũi. Ở gian giữa phía hè hiên được dựng nhô về phía trước tạo thành một gian. Gian này được làm kiểu tứ trụ với hai tầng tám mái. Nơi đay đặt cỗ điệu bát cống. Hai bên hồi hiên đắp hai pho tượng Túc Vệ (lính canh cổng), Tượng tạo tác tư thế đứng thẳng vẻ mặt nghiêm trang. Ngăn cách giữa hè hiên và bên trong là hệ thống của bức bàn, mỗi cách cửa được trạm khắc một chủ đề như: phượng cưỡi mây, long mã cuốn mây….rất tinh sảo theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Kết cấu các bộ vì hạ cung kiểu giá chiêng đơn giản được bào trơn đóng bén. Nâng đỡ mái là hệ thống hai hàng cột cái và hai hàng cột quân. Tại trung tâm gian giữa đặt bàn thờ, bên trên để ngai bài vị Thành Hoàng Làng Triệu Vũ Đế. Ngai, bài vị cao 2,1m; dài 0,73m; sâu 0,7m. Đế ngai được làm kiểu chân quỳ dạ cá, mặt hổ phù. Bài vị; phần chán hình quả cầu lửa, bên trong trạm 6 con rồng nằm cuộn tròn; phần thân trang chí tứ linh đường riềm làm thành hình đao lửa; trên thân bài vị khắc bài văn bằng chữ Hán ca ngợi công đức của thần. Ngoài ra trên bàn còn bài trí một số đồ thờ tự như: chóe, đôi chân nến, …đặc biệt là một bát hương cổ mầu me ngọc có đường kính 0,3m; cao 0,32m được trang trí hoa văn sơn thủy hai bên bàn thờ đặt hai pho tượng Thái Giám cao 1,76m; ngang vai 0,5m. Tượng tạo tác trong tư thế đứng thẳng. Hai bên dĩ hạ cung đặt bàn thờ; gian bên trái thờ con, cháu của Triệu Đà; Gian bên phải thờ hoàng hậu và hai công chúa, Trưởng Trang và thứ công chúa. Tiếp nối với tòa hạ cung là ba gian thượng cung với kết cấu kiến trúc kiến trúc các vì kiểu vì kèo trụ chốn, bào trơn đóng bén. Các mảng trạm khắc ở tòa này tập trung chủ yếu ở mặt trước cửa ra vào với các đề tài: hoa lá cách điệu, lưỡng long chầu nguyệt, đao lửa, phượng ngậm hoa sen…, được bàn tai nghệ nhân trạm trổ rất tài tình và đầy chất sáng tạo. Ngoài ra, ở hai bên khu nội tự còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy có 10 gian, kết cấu đơn giản, được sử dụng làm nơi tiếp khách và hội họp. Đình được xếp hạng "Kiến trúc nghệ thuật" theo Quyết định số 49/2007/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao, ngày 3/8/2007. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang , tỉnh Hưng Yên

Hưng Yên 2479 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Chưa mở cửa

Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương

Đồng chí Lê Văn Lương - người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, với 83 năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí đã có những đóng góp quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Ghi nhận những công lao, cống hiến to lớn đó, đồng chí Lê Văn Lương đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương được xây dựng năm 2003 thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Đây là công trình được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên cùng con cháu dòng họ Nguyễn xây dựng nhằm ghi nhớ tới những công lao, cống hiến to lớn của đồng chí với cách mạng Việt Nam. Đây cũng là nơi trưng bày các tư liệu, hình ảnh cũng như tôn thờ đồng chí Lê Văn Lương - Nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, của cách mạng, người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Nhà tưởng niệm có kết cấu kiểu chữ Đinh (丁), gồm hai tòa Tiền tế, Hậu cung và các hạng mục khác như: cổng, nhà tiếp khách, nhà thờ họ Nguyễn, lầu bia... Các hạng mục kiến trúc được làm theo phong cách cổ truyền còn tương đối đồng bộ vững chắc. Tiền tế là nơi trưng bày và giới thiệu gần 100 tài liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng cùng những đóng góp to lớn của đồng chí Lê Văn Lương với quê hương, đất nước. Nối với Tiền tế là một gian Hậu cung kiến trúc đơn giản kiểu kèo cầu quá giang không trang trí hoa văn. Hậu cung là nơi linh thiêng, trang trọng nhất đặt ban thờ đồng chí Lê văn Lương, trên ban thờ đặt pho tượng chân dung đồng chí Lê Văn Lương được đúc bằng do Thủ tướng Phan Văn Khải tặng nhân dịp khánh thành nhà tưởng niệm năm 2003 thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng chí. Cùng trong khuôn viên Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương là Nhà thờ dòng họ Nguyễn được đồng chí Nguyễn Thị Bích Thuận (vợ đồng chí Lê Văn Lương) xây dựng năm 2005. Nhà thờ đơn sơ nhưng trang trọng, trên ban thờ đặt ngai và bài vị đề “Nguyễn gia Liệt Tổ”. Bên cạnh nhà thờ dòng họ Nguyễn là lầu bia được dựng kiểu tứ trụ với bốn mái cong xoắn chôn ốc. Bên trong đặt tấm bia đá khắc ghi những lời ca ngợi công đức và tấm lòng son sắt vì Đảng vì dân của đồng chí Lê Văn Lương và phu nhân Nguyễn Thị Bích Thuận. Hàng năm, ngày giỗ đồng chí Lê Văn Lương được chính quyền địa phương cùng con cháu dòng họ tổ chức vào ngày 26/3 âm lịch (ngày mất của đồng chí). Đây cũng là dịp mọi người cùng quây quần gặp mặt để tưởng nhớ tới công ơn của các bậc tiền bối đã hy sinh vì độc lập, tự do, hạnh phúc của con cháu hôm nay và mai sau. Để tôn vinh những cống hiến to lớn của đồng chí Lê Văn Lương đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng thời khẳng định giá trị văn hóa, lịch sử của Nhà tưởng niệm đồng chí Lê Văn Lương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 673/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 24/3/2022 công nhận xếp hạng Địa điểm lưu niệm đồng chí Lê Văn Lương là “Di tích lịch sử” cấp Quốc gia./. Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 2612 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Làng Đa Ngưu

Đình Đa Ngưu ở làng Đa Ngưu, xã Tân Tiến, huyện Văn Giang (Hưng Yên) cho biết, căn cứ vào dấu tích lăng Bà Chúa cũng như sắc phong của các triều đại (trong đó có sắc phong của Vua Quang Trung năm xưa để lại, đình Đa Ngưu được xây dựng từ rất sớm. Năm 1520, hai anh em ông Cống Cả, Cống Hai đã đứng lên tổ chức xây dựng đình. Khi khởi dựng, các bô lão trong làng đã mua 101 cây lim và sử dụng 100 cây lim làm cột, 1 cây chẻ ra làm cán đục và không sử dụng bất cứ một đinh sắt nào. Hiếm có một ngôi đình, đền nào tại vùng Đồng bằng Bắc Bộ có cấu trúc hiên với hàng cột bao quanh như đình Đa Ngưu. Theo truyền ngôn của người xưa: “Đa Ngưu như ngưu ngọa, thất thập nhị tinh phong” (nghĩa là: “Làng Đa Ngưu có dáng trâu nằm, có 72 ông thần đất”), chính nơi giữa làng có địa thế cao đẹp, thoáng mát đó đã xây dựng nên ngôi đình có 100 cột. Ngôi đình gồm 3 tòa là: Tiền đình, trung đình và hậu cung. Mặt trước đình nhìn ra hướng Tây Bắc. Gian trung tâm có nhiều bức đại tự lớn chạm trổ hoa lá long quần. Tòa hai có các hàng cửa võng chạm rồng phượng lộng lẫy cùng bức đại tự “Thánh cung vạn tuế”. Các bức hoành phi câu đối sơn son thếp vàng, khảm trai được treo ở các cột và trước ban thờ ca ngợi công đức của ba vị thần thờ ở hậu cung là: Chử Đồng Tử, Tiên Dung và Hồng Vân công chúa. Trước và sau đình có hai giếng Ngọc trồng sen. Những ngày hè hương sen tỏa thơm ngát. Vào ngày hội làng hằng năm (từ ngày 10 đến ngày 12/2 âm lịch), các vị bô lão thường làm lễ tắm rửa cho các ngai trong điện thờ ở hai giếng Ngọc. Phía đông đình là nhà tiên lão-nơi thờ cúng những người có công với nước, phía tây là Khánh Vân Tự. Nghi môn của đình Đa Ngưu được xây dựng theo lối truyền thống của đình, đền vùng đồng bằng Bắc Bộ, gồm 4 trụ biểu tạo thành tam quan. Trụ biểu xây bằng gạch. Hai trụ biểu tại giữa cao, to; hai trụ biểu hai bên nhỏ, thấp. Cả 4 trụ biểu có đỉnh trụ trang trí tứ phượng, thân trụ phía trên trang trí các ô lồng đèn, giữa là ô trang trí câu đối, đế thắt dạng cổ bồng. Giữa hai trụ biểu cao là cổng chính vào đình. Hai bên cổng chính là hai cổng phụ, phía trên có mái che, dạng 4 mái. Xung quanh đình có tường bao. Sân đình rộng 20m, dài 32m, lát gạch Bát Tràng. Giữa sân có một con đường tạo bởi gạch lát cao hơn so với nền sân xung quanh. Bên trái sân có một tòa Tả vu, là nơi đặt các đồ tế lễ. Đại đình gồm 2 tòa Tiền điện, Chính điện đặt song song với nhau. Tiền điện dài 20m, rộng 7,7m, gồm 5 gian, 4 mái, có hành lang rộng 1,4m bao quanh 3 phía. Tiền điện có cấu trúc của một ngôi đình. Gian chính giữa có sàn thấp gọi là gian lòng thuyền, là nơi tế lễ. 4 gian hai bên đều có sàn cao, là nơi hội họp. Tiền điện có 40 cột, cột cái cao 4,2m, đường kính rộng 0,45m, cột quân cao 3,1m, đường kính rộng 0,35m. Chính hệ thống cột bố trí dọc theo hành lang làm cho đình có số cột nhiều hơn so với các ngôi đình truyền thống khác. Phía trước và hai đầu hồi tòa tiền điện đều có cửa bức bàn cao 2,25m, trên lắp chấn song. Đình Đa Ngưu còn là chứng nhân của những sự kiện lịch sử. Phó Đức Chính (1907 -1930) – một trong những lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng đã đem tổ chức của mình về đây gây dựng cơ sở chuẩn bị chống Pháp. Năm 1929 – 1930, đình Đa Ngưu là nơi diễn ra các cuộc họp để nghe cán bộ Việt Minh tuyên truyền về Cách mạng Tháng Mười Nga… Với những giá trị to lớn về lịch sử văn hóa và kiến trúc, đình Đa Ngưu đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia từ năm 1995. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2290 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Mễ Sở.

Chùa Mễ Sở tọa lạc ở thôn Mễ Sở, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa Mễ Sở nằm cạnh đê sông Hồng, nằm giữa một vùng quê trù phú từ lâu đã nổi tiếng với pho tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay. Chùa được dựng từ thời Hậu Lê và đã được tu sửa nhiều lần, các dấu tích hiện còn chủ yếu được trùng tu vào cuối thế kỷ XIX. Duy chỉ có bức tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, còn giữ được tương đối nguyên vẹn. Quan Âm hay Quan Thế Âm có nghĩa là nghe tiếng kêu đau khổ của chúng sinh trong cuộc đời để cứu vớt. Quan Âm có thể hóa hiện thành muôn nghìn hình khác nhau để thích ứng với mọi hoàn cảnh nhằm cứu độ mọi trường hợp đau khổ. Với một pháp lực và quyền năng vô biên, cùng sự minh triết tuyệt đối với thiên thủ thiên nhãn, người cứu độ hết thảy. Tượng được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền với kích thước khá lớn. Từ chỏm tới mặt ngồi cao 1,4m, bệ cao 0,53m, tòa sen cao 0,23m, với khuôn mặt thanh thoát, thuần hậu, thân hình thon thả, tạo nên một pho tượng đẹp cả về nội dung và hình thức thể hiện. Tượng có hai đôi tay chính, đôi thứ nhất chắp trước ngực, mang ấn “chuẩn đề“, đôi tay còn lại đưa lên phía trên đỡ các đài sen và tượng Phật nhỏ. Các đôi tay lớn ít nhiều có nét mềm mại uyển chuyển, các cánh tay tròn lẳn, đế trần được chắp vào ờ hai cạnh sườn trong tư thế cao thấp khác nhau. Độ mở của các cánh tay vừa đủ cao mà không che khuất pho tượng. Ngay sát phía sau tay lớn là hệ thống tay nhỏ với hàng trăm tay mắt được kết thành 10 lớp mọc theo từng cặp cân xứng. Mười lớp tay mắt này lại được chia làm 3 phần lớn, tạo cảm giác như có ánh hào quang tỏa ra từ đầu tượng. Phía trên đầu tượng ở mũi hào quang chạm nổi hình đám mây với những cánh tay nhỏ đan đều như những cánh chim trong tư thế bay xuống. Con chim này đã tránh cho vầng hào quang nét “vô duyên” của tạo hình, gợi mở cho người xem trí tò mò về Phật pháp. Các tay nhỏ của tượng được thể hiện với những cánh tay dài thon thả, các mắt được đặt trong lòng bàn tay kết ấn cam lộ, các cánh tay này dài ngắn khác nhau theo độ mở dần lấy đầu tượng làm trung tâm, khiến chúng như mang một chức năng kết hợp tạo thành hào quang… Cùng với phần đài sen, bệ tượng, tất cả tạo nên một pho tượng hoàn chỉnh với những đường nét điêu luyện tỉ mỉ. Quan niệm vẻ đẹp đương thời đã được các nghệ nhân gửi gắm vào pho tượng với những đường nét thanh thoát, phúc hậu cho khuôn mặt và dáng tượng. Đây là một trong những pho tượng gỗ tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỳ XIX. Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Mễ Sở là niềm tự hào của điêu khắc tượng Việt, mang nhiều nét sáng tạo mà vẫn phản ánh được tinh thần nhân ái của đạo Phật và tâm hồn Việt Nam. Chùa Mễ Sở được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 16 tháng 11 năm 1988. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2498 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Đầu và Đền Ngò

Đền Ngò thờ Hai Bà Trưng, Người phụ nữ Việt Nam đầu tiên phất cờ khởi nghĩa đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập cho nước nhà. Đền được ông cha ta kiến tạo ngay đầu làng trong một khuôn viên thoáng rộng, đón gió bốn phương, cảnh sắc hài hoà, thâm nghiêm, tráng lệ. Mặt trước đền có hồ sen hình bán nguyệt, in hình bức bình phong lớn có dáng cuốn thư lượn hình cờ kiếm và long, ly, qui phượng. Trước cổng đền là hai cột trụ to, cao vuông vức khắc ghi hai hàng câu đối: - Phong Quận cựu binh uy vạn cổ anh thanh kinh Bắc địa. - Hương viên lưu hiển tích thiên thu linh ứng trần Nam bang. Đại ý là: (Chiến công của nghĩa quân Châu Phong vang trời đất Tiếng thơm của Hai Bà lừng lẫy đến muôn đời) Tiếp đó là hai lầu tượng, trong đó tạc hình đôi voi chiến - Hai Bà cưỡi voi ra trận. Bên trong Đền có hoành phi, câu đối, bài vị, đồ tế tự… đều sơn son thếp vàng choáng ngợp sắc mầu. Hậu cung có hai ngai thờ cổ, tượng Hai Đức Vua Bà ngự trong khám lớn. Tượng cao chừng hơn một mét, đường nét điêu khắc tinh xảo, độc đáo. Với tư thế vươn nên phía trước, hai cánh tay tượng giơ cao ngang tầm mắt, dấu hiệu của chữ Tràng Khoát, dụ trước ba quân, giữ vững sơn hà. Tượng Hai Bà lồng lẫy trong bộ lễ phục màu hồng, toả ánh hào quang lung linh đèn nến. Đền Ngò hiện còn lưu giữ được 18 sắc phong qua các triều đại từ thời Lê Cảnh Hưng. Đó là những văn liệu vô cùng quý giá. Tháng 8-1945, Đền Ngò là nơi diễn ra cuộc mít tinh lớn sau khi cướp chính quyền huyện Văn Giang tuyên bố chấm dứt chế độ cũ, chính quyền mới về tay nhân dân. Nhiều năm tháng trôi qua, sau bao lần trùng tu, tôn tạo, đền Ngò vẫn giữ được vẻ cổ kính năm xưa. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp công nhận Đền Ngò là di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia, được Nhà nước bảo vệ. Địa danh lịch sử Đền Ngò mãi mãi gắn liền với địa danh lịch sử Đồng Chầu, Giếng Da, Bãi Yến. Những địa danh đó đã đánh đấu những kỳ tích lớn lao của một thời kỳ lịch sử, ghi nhận công sức của người Phụng Công theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Đình Đầu được xây dựng cùng thời với Đền Ngò và đồng thờ phụng Hai Bà Trưng - Người anh hùng dân tộc. Đình Đầu to, đẹp, lộng gió đồng quê, cổ kính, rêu phong, trải sắc mầu năm tháng. Cổng đình lồng đèn thao rủ, hai hàng câu đối nhắc nhở hậu thế trân trọng nếp nề. Đao đình uốn lượn cong lên hướng về tam sơn theo kiểu tứ linh chầu nguyệt bao trùm khu tiền lễ và hậu cung. Gian giữa khu tiền lễ bầy hương án, có đỉnh hạc, lư hương… Trên cao treo cửa võng sơn son thếp vàng. Bốn bức hoành phi rộng khắp các gian đình, mang 4 hàng chữ: Trưng Thánh Vương điện Vạn cổ anh linh Thăng long định đỉnh Chính khí quang minh Tất cả đã khái quát vẻ thiêng liêng thành kính của ngôi đình. Hai bên khu tiền lễ là hai hàng Bát bửu, gươm vàng uy nghi, trang trọng. Hậu cung có tượng Hai Đức Vua Bà tạc bằng đá quý theo mẫu hình Quốc gia ở đền Đồng Nhân – Hà Nội. Quanh đình có nhiều cây cổ thụ tràn trăm năm tuổi, toả bóng mát cùng ngôi đình trầm mặc ghi dấu ấn thời gian. Những năm đầu hoà bình lập lại và những năm chống Mỹ, đình Đầu là địa điểm tổ chức nhiều kỳ Đại hội Đảng bộ cấp xã, nhiều Hội nghị quan trọng của huyện Văn Giang. Năm 1970 cũng tại đình Đầu, Bộ y tế nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã tổ chức Hội nghị cán bộ lãnh đạo ngành Y toàn miền Bắc do Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch chủ trì quyết sách những chủ trương lớn về y học trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Đình Đầu có 18 sắc phong qua các triều đại và cũng bắt đầu từ thời nhà Lê. Năm 1989, Bộ văn hoá đã cấp bằng xếp hạng công nhận đình Đầu là di tích lịch sử, văn hoá cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2455 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Chùa Phú Thị ( Hưng Phúc Tự)

Chùa Phú Thị tọa lạc trên một khuôn viên rộng, nằm phía ngoài và sát ngay chân đê sông Hồng, thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Chùa được xây dựng theo kiểu chữ “Đinh” (丁), cửa nhìn về hướng Tây Nam và có tên Hán là Hưng Phúc Tự. Chùa được xây dựng từ thời Hậu Lê và theo hệ phái Bắc Tông. Chùa đã được trùng tu nhiều lần và lần gần đây nhất là vào năm 1991. Bước chân vào thăm chùa, đầu tiên du khách sẽ đi qua tam quan - cổng phía ngoài chùa. Nhìn bên ngoài tam quan như 3 kiến trúc riêng biệt với ba cửa. Cửa giữa cao to, được xây hai tầng, mặt bằng hình vuông. Tầng trên và tầng dưới bằng nhau. Trên nóc tầng hai lợp ngói mũi hài với bốn đầu đao tỏa ra bốn hướng. Hai bên tả hữu là hai cửa nhỏ đối xứng. Ngay sau hai cửa nhỏ này là các bậc dẫn lên tầng hai của cửa giữa. Đi qua tam quan là tiền đường (Thượng điện). Nhìn bên ngoài, tiền đường được xây dựng theo kiểu chồng diêm với hai gác chuông và trống ở nóc mái nhà. Chuông chùa (Đại hồng chung) được đúc vào thời vua Minh Mạng. Vào bên trong, du khách sẽ thấy tiền đường gồm năm gian với không gian rộng và thoáng. Bốn hàng cột lim đều đặn được phân bổ ở giữa tiền đường. Trên xà ngang trung tâm tiền đường được bài trí một của võng chạm nổi hình lưỡng long chầu nguyệt và được sơn son thếp vàng. Giáp tường phía trong đặt 6 pho tượng là tượng Khuyến Thiện, tượng Trừng Ác, tượng hai thánh Tăng, tượng hai Thị Giả. Những bức tượng này làm tăng thêm vẻ uy linh của tiền đường. Bên cạnh đó chùa có nhiều pho tượng cổ bằng gỗ hoặc đất nung phủ sơn, như tượng Chuẩn Đề, tượng Địa Tạng (cao 1,08m); bộ tượng Thập Điện Minh Vương (cao 0,90m), tượng Cấp Cô Độc (cao 1,07m). Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Theo quyết định số 14 ngày 4 tháng 4 năm 1984. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2589 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Làng Mai Viên

Đình Mai Viên thuộc thôn Mai Viên, xã Song Mai - một xã có địa bàn rộng, đông dân cư và phát triển trên nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội của huyện Kim Động. Mai Viên được hiểu trong đó “Mai” làng đẹp như một vườn mai, “ Viên” làng có nhiều quan chức, viên chức. Theo thần tích và sắc phong và truyền ngôn lại trong dân, đình thôn Mai Viên được khởi dựng khá sớm vào thời Hậu Lê với quy mô còn nhỏ bé. Đình tọa lạc trên một gò đống cao ráo thoáng mát,cảnh quan đẹp, thuận tiện cho việc sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân. Mặt tiền quay về hướng Đông Nam, phía trước đình là cây đa giếng nước cổ kính có niên đại hàng trăm năm, sân đình được bao phủ bởi tán cây bàng, nhãn mát mẻ. nhìn toàn bộ bên ngoài cho ta cảm thấy dự uy nghi và tôn kính bởi vẻ đồ sộ và cổ kính của ngôi đình làng. Di tích đình Mai Viên được xây dựng theo kiến trúc kiểu chữ I (chữ công) nhưng mất phần hậu cung và 2 nhà chè. Nay di tích còn lại một nhà tiền tế đồ sộ vừa được nhân dân sửa chữa, mái lợp ngói mũi phẳng, đầu hồi 2 bên nóc đình được đắp hai đầu kìm đội lân. Trải dài phần nóc nghệ nhân đắp nổi đôi rồng chầu mặt nguyệt uốn thành 3 khúc khỏe mạnh và uy nghi. Kiến trúc đình Mai Viên cao ráo bề thế, kết cấu vì kèo nóc từ đầu đến phần mái theo kiểu chồng rường đấu xen, hệ thống con gường đỡ hoành chạm nổi hình lá lật cách điệu. Do những biến động của lịch sử và xã hội, kiến trúc đình không còn đồng bộ và phải tu bổ nhiều lần vào thời Nguyễn, vì vậy nghệ thuật kiến trúc mang đậm nét thời Nguyễn. Cũng như những ngôi đình ở các xã khác, đình Mai Viên vừa được coi là trụ sở để dân hội họp, bàn việc làng vừa là nơi thờ thần hoàng. Theo sắc phong và thần tích thì đình thờ 5 vị thành hoàng làng và 3 vị đức thánh tổ như: Trung Thành Đại Vương, Linh Lang Đại Vương, Cao Mang Đại Vương, Đổng Vĩnh Đại Vương và vị Đức thành tổ có công với dân, dạy dân làng làm nghề nung vôi, đóng gạch, làm nghề thợ xây. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, đình Mai Viên là cơ sở tụ họp của các đồng chí lão thành cách mạng. Năm 1942 phong trào cách mạng phát triển, các cán bộ cách mạng đã về đây để tạo dựng cơ sở. Đình còn là nơi hậu đóng quân của bộ đội huyện cơ sở in ấn tài liệu kháng chiến, đào hầm bí mật ở hậu cung để bảo vệ bộ đội du kích. Trong những năm chống Mỹ, cơ sở còn khó khăn UBND xã Song Mai tạm mượn đình Mai Viên để họp hành tại đây. Đến năm 1988 mới trả cho thôn. Ngày nay, đình Mai Viên còn lưu giữ các hiện vật quý có giá trị lịch sử, văn hóa như: tại đình hiện có một ngai vàng thờ thời Nguyễn, 3 bát hương thời Nguyễn, 2 hòm sắc, 1 giá chúc với 27 sắc phong qua các triều đại, ống hưởng, đài gỗ và một số đồ thờ khác có niên đại muộn, đỉnh đồng 2 chiếc, nến đồng 2 đôi, lục bình một đôi. Năm 1998 đình làng Mai Viên được nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nhân dân địa phương không chỉ coi đây là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng mà còn là nơi để mọi người tổ chức ôn lại truyền thống cha ông, các thuần phong mỹ tục, nếp sống cộng đồng. thông qua đó là sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, giữa các thành viên trong cùng một cộng đồng để tạo nên mối gắn kết nhân ái, tình làng nghĩa xóm. Ngôi đình là niềm tự hào của nhân dân trong thôn. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 2738 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Bà Chúa Mụa

Bà Chúa Mụa (1580 – 1648)bà tên thật là Trần Thị Cư, sinh ngày 5 tháng 5 năm Canh Thìn (1580) tại làng Mụa, tổng Thiên Thi, phủ Khoái Châu xưa, nay thuộc thôn Cộng Vũ, xã Vũ Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Truyền thuyết kể rằng, vào một ngày kia, chúa Trịnh Tráng xa giá đi qua vùng này, rộn ràng nào ngai, nào kiệu, cờ xí rợp trời, kèn trống vang lừng, dân làng náo nức đi xem. Một cô gái cắt cỏ cạnh đường cái quan vẫn cứ mặc như không hay biết gì. Khi kiệu đi qua, cô không hề nhìn lên, đôi tay thoăn thoắt giật liềm vơ cỏ, miệng hát véo von, trong trẻo: Tay cầm bán nguyệt xênh xang Một trăm thức cỏ lai hàng tay ta Quân lính ngạc nhiên, tiếng hát càng véo von và kiệu chúa từ từ dừng lại. Chúa kéo rèm lên nhác thấy có cô gái có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, đối đáp thông minh, biết đây là kỳ nữ. Chúa truyền rước cô về kinh thành Thăng Long rồi ban quốc tính, đổi tên là Trịnh Thị Ngọc Am. Bà giúp chúa trông nom việc học tập trong phủ của các cung tần, mỹ nữ, củng cố mối đoàn kết giữa chúa với triều đình nhà Lê. Bà sinh được một người con gái là Trịnh Thị Minh, được chúa ban cho 4 đĩa vàng và 1 đĩa bạc. Chẳng bao lâu công chúa Thụy Minh qua đời, quá đau buồn, bà xin về tu ở chùa làng. Chúa rất quý mến người vợ tài sắc của mình, cho khai con sông nhánh từ sông Cửu An chạy qua làng Mụa để vận chuyển các loại đồ quý về xây tháp. Hàng ngày, bà lên tháp tưởng vọng về phủ chúa ở Thăng Long. Bà đã bỏ tiền ra giúp dân khai khẩn ruộng đất, khai sông dẫn thủy nhập điền. Bà giàu lòng nhân đức hay giúp đỡ mọi người và cầu Phật ban phúc lành cho dân chúng. Tự bà xin lập và tu sửa các chùa chiền quanh vùng và phổ biến lễ cúng Phật. Bà chẳng những có công lớn đại trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bà Trịnh Thị Ngọc Am mất vào tuổi 68, nhân dân tôn bà làm thần và lập đền thờ ngay tại quê hương. Đền Mụa dựng vào thế kỷ thứ 17, trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ “Nhị”. Cổng Tam quan khá đồ sộ, có hai hàng câu đối: Tài sắc song toàn nơi phủ chúa Nghĩa tình trọn vẹn với quê hương Cạnh đó có tòa thư điện nhỏ đặt pho tượng phỗng tạc đá xanh, dáng dấp bụng phệ được thờ bằng bát hương cũng bằng đá xanh chạm chân quỳ, có 3 tai mặt hổ phù. Trước cửa đền đặt tấm bia dựng năm 1634 có ghi: Bà chúa Mụa Trịnh Thị Ngọc Am đệ nhất cung tần vương phủ chúa Trịnh Tráng. Tấm bia thứ hai dựng năm 1650 ghi nhận công lao của bà với dân làng trong việc dựng chùa, đình, đền, miếu… Tại gian trung tâm tòa đại bái có nhang án bằng đá, chạm khắc nổi thành ba bức phù điêu: bức giữa chạm nổi hình trong, hai bên chạm “Long cuồn thủy”, xung quanh chạm hoa văn sóng nước cách điệu, mang phong cách Hậu Lê. Trên hai cột cái tòa đại bái có hai hàng câu đối ca ngợi tài đức của Bà: Tài cao nghĩa trọng, uy thế trấn sơn hà Tích đức tu nhân, chúa cung sùng đạo Phật Gian hậu cung đặt tượng bà chúa Mụa. Năm 1634, chúa Trịnh Tráng cho tạc tượng bà bằng đá khi đang sống. Tượng to bằng người thật ngồi trên tòa sen, đầu đội vương miện, chạm nổi hình Phật Tổ Như Lai, tai đeo bông hoa to, chân xếp bằng kiểu người ngồi thiền. Phía trước tượng bà chúa là tượng Quận Công bằng đá, ngồi xếp bằng tròn, mặc áo bào. Hai tòa hai bên thờ tượng Thị Vệ và Kim Đồng chầu bà chúa, thân chạm nổi áo gấp. Sau hậu cung là tòa Cửu phẩm liên hoa, đặt nậm đá đế hoa sen, dưới chạm tượng bà chúa lúc về già. Ngày 08/6/1963 trong khi làm thủy lợi sông cầu Ngàng dân công đã đào được 4 đĩa vàng, 1 đĩa bạc của Chúa Trịnh Tráng ban thưởng cho con gái, ở đáy một đĩa có dòng chữ. “Thụy Minh công chúa kim phụ lai bát tinh công chúa” (chén bạc của cha ban cho con, Thụy Minh công chúa). Từ những giá trị trên, đền Bà Chúa Mụa được Bộ văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích “Nghệ thuật” cấp Quốc gia số 2233-Quyết Định/Bộ Văn hóa Thể Thao ngày 26/6/1995. Đặc biệt, ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2283/Quyết Định - Thủ Tướng, công nhận Sưu tập đĩa vàng hoa sen Cộng Vũ (đền Mụa, xã Vũ Xá) có niên đại thế kỷ XI – XII là Bảo vật Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1538 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đền Đào Xá

Thôn Đào Xá cùng với hai thôn Ngô Xá và Vĩnh Hậu hợp thành xã Vĩnh Xá. Đào Xá là một thôn lớn có cả đình, chùa, miếu, đền do cư dân theo đạo Phật và một nhà thờ của đạo Thiên chúa giáo. Đền Đào Xá có tên xưa là đền Sướng Thiện, là Tam Giáo Động, được xây dựng ở đầu thôn trên một khu đất cao, thoáng mát từ thập niên đầu thế kỷ XIX. Theo các cụ cao tuổi trong làng kể lại, khoảng năm 1896, cụ Từ trông coi đèn nhang đã sang đền Bạch Mã thuộc huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông cũ xin tên hèm để thờ, đặt tên cho đền là Sướng Thiện. Từ đó nhân dân trong vùng tìm đến đây lễ bái cầu phúc, hướng thiện và xin thuốc nam về chữa bệnh. Đền được xây dựng theo kiến trúc điêu khắc thời Nguyễn có vòm cuốn bê tông và hình khối nội công ngoại quốc. Đến năm 1929 , nhân dân lại đóng góp công sức và tiền của tu tạo lại đền cho bề thế, khang trang hơn. Khi hội Tam Thánh ra đời, đền thờ Phật – Tiên – Thánh, 3 vị giáo tổ và thờ vọng những vị anh hùng dân tộc đã có công cầm quân chống ngoại xâm như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão. Tên đền Sướng Thiện hay Tam Giác Động nói lên ý tưởng và tâm nguyện về điều thiện, hành động theo điều thiện. Sau này, tên đền được gọi theo tên thôn: Đền Đào Xá. Chữ Đào chính là tên một dòng họ có người đến khai phá vùng đất này sớm nhất và cũng là họ phát triển đông đúc nhất thời ấy. Thời kỳ 1939 – 1945, Đảng ta vận động đấu tranh cách mạng trong sự khủng bố, lùng sục gắt gao của chính quyền thực dân, đền Đào Xá là một trong những cơ sở cất giấu tài liệu của Đảng bộ Hưng Yên. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, nhiều cuộc mít tinh hội họp lớn của xã đã được tổ chức tại đền. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra ác liệt, vùng đất này từng có thời gian bị địch chiếm đóng, đền Đào Xá lại là nơi cán bộ ta đặt chân an toàn để phát triển phong trào, khi thì đóng vai người đến đền cúng lễ, khi lại là người lên đền xin lá thuốc về chữa bệnh cho người nhà. Trong đền có hầm bí mật nuôi giấu cán bộ. Hòn Non bộ đắp nổi giữa hồ nước trong khuôn viên với mục đích cất giấu tài liệu nên được tạo dáng nhiều hang lạch ăn sâu vào giữa khối đá giả sơn trông lạ mắt mà kín đáo. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân khu III đã về đây mở Hội nghị Quân chính bàn việc chống chiến tranh phá hoại của địch và các chủ trương biện pháp chi viện cho chiến trường miền Nam. Tiếp đó, Bộ Y tế lại chọn đền Đào Xá làm địa điểm sơ tán cho xí nghiệp Dược phẩm. Đền Đào Xá còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý, ngoài Hòn Non bộ xây đắp công phu, phải kể đến 24 pho tượng mỗi pho đều có vẻ hấp dẫn riêng. Nhiều đồ tế tự có giá trị điêu khắc như pho kiệu Ngọc Bộ, ngai, cửa võng, câu đối cùng với nhiều cổ vật quý hiếm nh lọ độc bình, lọ hoa, choé, bát hương… Đền Đào Xá, xã Vĩnh Xá được Nhà nước xếp hạng di tích “Lịch sử và nghệ thuật” cấp Quốc gia theo Quyết định số 570, tháng 9/1998. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.

Hưng Yên 1673 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Thanh Sầm

Đình Thanh Sầm toạ lạc trên khu đất cao ráo, thoáng đãng tại thôn Thanh Sầm, xã Đồng Thanh, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Theo thuyết phong thuỷ, đình toạ lạc trên thế đất hình “đầu rồng”, phía trước là một hồ nước lớn, bao bọc quanh đình là con đường lớn tựa “lưng con xà”, tạo nên nét đẹp không gian cho ngôi đình cổ. Với địa thế đó, đình Thanh Sầm được xem như đặt trong thế “đắc địa”, con cháu được hưởng phúc lộc dài lâu. Đình Thanh Sầm là nơi tôn thờ Nhị vị Thành hoàng làng: Hướng Thiện Ninh Quốc Đại vương (Phạm Thiện) và Đạo Quang Vĩnh Yên Đại vương (Phạm Quang) thời vua Hùng Vương. Hai vị có công giúp các vua, các tướng dẹp giặc, thiết lập trật tự đất nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân. Không chỉ vậy, đình Thanh Sầm cùng những di vật còn lưu giữ được tại di tích là nguồn sử liệu vô cùng quý giá trong việc nghiên cứ sự hình thành và phát triển của làng Thanh Sầm. Đình Thanh Sầm có bố cục mặt bằng tổng thể kiểu “Tiền Nhất hậu Đinh” gồm: 05 gian Đại bái, 05 gian Trung từ và 02 gian Hậu cung. Các cấu kiện kiến trúc đều được làm hoàn toàn từ vật liệu gỗ tứ thiết còn đồng bộ, chắc khỏe, bền vững với nhiều mảng chạm khắc đẹp, mang đậm phong cách kiến trúc và mỹ thuật thời Nguyễn. Các mảng chạm thể hiện nhiều đề tài trang trí, các điển tích dân gian vô cùng phong phú và đa dạng như: Tứ linh, tứ qúy, tùng lộc, chim trĩ, lá lật, vân xoắn, cá chép... Tất cả đã phản ánh được tính mỹ thuật cao, tài năng sáng tạo của người nghệ nhân đương thời. Tại đình còn bảo lưu được một số di vật tiêu biểu có giá trị như: Sắc phong (thời Nguyễn), thần tích, đại tự, câu đối, ngai và bài vị, kiệu thờ,... Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích kiến trúc nghệ thuật đình Thanh Sầm đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (tại Quyết định số 887/Quyết Định -Bộ Văn Hóa Thể Thao Du Lịch ngày 15 tháng 4 năm 2022). Nguồn Sở văn hóa thể thao và du lịch.

Hưng Yên 1462 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn

Khu lưu niệm nhà bác học Lê Quý Ðôn thuộc thôn Ðồng Phú, xã Ðộc Lập, huyện Hưng Hà là nơi lưu giữ, bảo tồn những hiện vật, dấu tích từng gắn bó với nhà bác học - danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Lê Quý Đôn tên thật là Lê Danh Phương, tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ngày mùng 5 tháng 7 năm Bính Ngọ, tức là ngày mùng 2 tháng 6 năm 1726 ở làng Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Đồng Phú xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu Tiến Sĩ làm quan đến Thượng Thư bộ Hình tước Hầu. Thân mẫu là Trương Thị Ích, con gái Tiến sĩ Trương Minh Lượng, làm quan Hoằng phái hầu. Thủa nhỏ Lê Quý Đôn đã nổi tiếng là thần đồng, năm 1739 theo cha lên kinh đô theo học thày là tiến sĩ Lê Hữu Kiều. Năm 18 tuổi thi Hương đậu giải nguyên, sau ở nhà dạy học và làm sách. Năm 27 tuổi thi Hội đỗ đầu, thi Đình đỗ Bảng Nhãn. Lê Quý Đôn lần lượt làm việc tại Viện Hàn lâm, Ban Toản tu quốc sử, đi Liêm Phóng tham gia việc binh, đi sứ Trung Quốc, làm việc tại phủ Chúa Trịnh… được thăng dần các chức Hàn Lâm viên chỉ, Tư nghiệp Quốc tử giám, Bồi tụng, Quốc sử tổng tài, Hiệp trấn … Năm 1784 được thăng Thượng Thư bộ Công, tước Nghĩa Phái hầu, cũng năm đó ông bị bệnh về nhà dưỡng bệnh tại quê ngoại là làng Nguyên Xá, huyện Duy Tiên (nay thuộc tỉnh Hà Nam) ông mất tại đây ngày 14 tháng 4 âm lịch thọ 58 tuổi. Vợ ông là bà Lê Thị Trang con gái thày học Lê Hữu Kiều, ông có bốn con trai là Quý Kiệt, Quý Tá, Quý Châu, Quý Nghị. Sự nghiệp sáng tác của Lê Quý Đôn rất đồ sộ, ông đã làm khoảng 40 đầu sách các loại bao gồm hầu hết các tri thức đương đại như lịch sử, thơ văn, triết học, chú giải kinh điển, tổng loại… là kho tàng quý của nền học thuật nước nhà. Khu lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn bao gồm ba công trình: Từ đường danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn, lăng mộ Lê Trọng Thứ (thân phụ Lê Quý Đôn), hồ Lê Quý. 1. Từ đường danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn Từ đường bao gồm tòa Bái đường năm gian, toà Trung đường và Hậu cung mỗi toà ba gian.Tiền thân Từ đường xưa là nhà ở của Lê Quý Đôn, khi phụ thân mất, Lê Quý Đôn mới cải thành từ đường, đến đời Lê Quý Kiệt đưa thêm cả bài vị Lê Quý Đôn về cùng ông nội. Dân địa phương quen gọi nơi đây là từ đường Bảng nhãn Lê Quý Đôn. 2. Lăng mộ Lê Trọng Thứ. Lê Trọng Thứ (1693 - 1783), là quan đại thần thời Lê Trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông là thân phụ nhà bác học lớn của Việt Nam trong thời phong kiến Lê Quý Đôn. Lê Trọng Thứ, hiệu Trúc Am tiên sinh, lúc nhỏ học hành rất sáng dạ, nổi tiếng là thần đồng, lớn lên theo học cụ Thám hoa họ Vũ ở Hà Nam. Năm Lê Trọng Thứ 27 tuổi đỗ hương tiến, năm 31 tuổi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân, khoa Giáp Thìn niên hiệu Bảo Thái thứ năm (1724), triều vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương, làm quan thanh liêm nổi tiếng trong ngoài, năm 65 tuổi về nghỉ với chức Hộ bộ Hữu thị lang. Ít lâu sau lại được mời ra làm quan lần thứ hai thăng đến chức Thượng Thư bộ Hình, rồi về nghỉ hưu ở tuổi 80. 3. Hồ Lê Quý. Năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765) , ông xin triều đình trở lại quê nhà “đóng cửa viết sách”. Để thư thái, có điều kiện để đọc sách và viết sách, Lê Quý Đôn cho đào một chiếc hồ lớn. Giữa hồ cho đắp một đảo nhỏ, trồng cây cảnh, xây một Thư Lân. Thời gian này ông viết nhiều sách “đặc biệt chú trọng đến địa lí” như : Địa lí tinh ngôn, Địa lí tuyển yếu… Có thể cả chương hình tượng và sản vật trong bộ Vân Đài loại ngữ cũng được chuẩn bị tài liệu từ thời kì này . Khu Lưu niệm danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1986. Nguồn: Sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Thái Bình

Hưng Yên 3589 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Thiên Hậu( đền thượng)

Đền Thiên Hậu (Thiên Hậu thượng phố) nằm trên đường Trưng Trắc - phường Quang Trung - Thị xã Hưng Yên. Đền được xây dựng năm 1640 do 14 dòng họ người Trung Quốc ở Quảng Đông, Quảng Tây và Phúc Kiến quyên góp tiền của xây dựng nên. Đền Thiên Hậu thờ bà Lâm Tức Mặc, theo “Đại Nam nhất thống chí”, bà là một vị thần biển. Lâm Tức Mặc sinh ngày 23.3 (âm lịch) là con gái thứ 6 của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc). Tương truyền khi Lâm Tức Mặc ra đời có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ. Lâm Tức Mặc rất thông minh, năm lên 8 tuổi đi học tiên, luyện đơn thành chính quả, có thể hô mưa gọi gió, dùng phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Khi dân tình mất mùa đói kém bà tìm ra rong biển ăn thay gạo, mì, mạch, nhờ vậy dân tình không còn đói khổ. Bà tìm ra một thứ dầu ma mộc, phun xuống đất mọc cây cho hạt ăn thay lúa gạo... Đến ngày 9.9 âm lịch bà không bệnh mà hoá. Sau khi hoá Bà thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển cứu giúp tàu thuyền qua lại. Người Phúc Kiến tôn bà làm thần Hàng Hải, ở đâu có người Phúc Kiến thì ở đó có đền thờ bà. Khi di cư đến Phố Hiến, người Phúc Kiến đã lập đền thờ Bà ở phố Bắc Hoà (nay là phố Trưng Trắc). Đền Thiên Hậu là công trình mang đậm màu sắc kiến trúc Trung Hoa trên nhiều hạng mục như: cổng nghi môn, nhà thiêu hương, mái, đao góc và cách kết cấu vì kèo. Tương truyền đền được làm ở Trung Quốc rồi mới mang sang Phố Hiến cất dựng. Nghi môn dựng giống như một ngôi nhà, mái lợp ngói ống, kiến trúc các bộ vì kiểu chồng rường, hệ thống cánh cửa khắc hình quan văn võ và người theo hầu. Thềm được lát bằng những tấm đá cuội trải qua mưa gió hàng mấy trăm năm vẫn không mòn. Phía trước nghi môn có đôi nghê chầu: con đực ngậm ngọc, con cái ôm con bú, chất liệu bằng đá hoa cương, tạo tác rất sinh động. Hai con nghê đá nói lên quan niệm sống của người Trung Hoa: được của và được con là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời. Khu nội tự xây kiểu chữ đinh gồm nhà thiêu hương và hậu cung. Nhà thiêu hương dựng chồng diêm 2 tầng 8 mái, mái lợp ngói ống, đường bờ nóc trang trí đức phật ngồi trên toà sen, xung quanh người qua lại. Toàn bộ hệ thống vì được kết cấu theo hình thái đặc biệt với từng chủ đề và tích truyện Trung Quốc như: Tam Quốc, Tây Du Ký… Ngoài ra, ở đây còn trang trí các loại hoa dây, bát mã quần phi, cảnh bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Hậu cung gồm 3 gian, kiến trúc kiểu “chồng rường cánh”, trên các đầu dư chạm thành hình cá chép. Gian hậu cung ngoài thờ Lâm Tức Mặc còn gian trong thờ cha mẹ, anh em ruột của Bà và các dòng họ người Hoa đã có công dựng đền. Hằng năm, Đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23 tháng 3 và ngày 9 tháng 9 (âm lịch) để kỷ niệm ngày sinh và ngày hoá của Lâm Tức Mặc. Đông đảo các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến và người Việt về tế lễ. Trong lễ hội tổ chức rước kiệu linh đình, lễ vật có bánh rong câu, bánh rùa, bánh Tô Châu… là những sản vật truyền thống của người Trung Hoa. Đền Thiên Hậu là một trong số rất ít công trình kiến trúc cổ của người Trung Hoa ở Phố Hiến còn bảo lưu tới ngày nay. Với mục đích gìn giữ và tuyên truyền quảng bá tới đông đảo quần chúng nhân dân, tỉnh Hưng Yên cho trùng tu Đền Thiên Hậu khang trang sạch đẹp và năm 1992 đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao công nhận là di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật. Nguồn: Báo Hưng Yên điện tử

Hưng Yên 2581 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Tiên La

Đền Tiên La tọa lạc trên diện tích gần 6000 m2, tại gò Kim qui, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đền Tiên La với kiến trúc cổ “Tiền nhất”, “Hậu đinh” từ cột kèo đến đao mái uốn cong với kiểu dáng Lưỡng long chầu nguyệt; mặt trước Đền hướng ra sông Tiên Hưng, gần ngã ba đổ ra sông Luộc, bao quanh Đền là những rặng cây xanh sum suê, tỏa bóng. Đền Tiên La được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 12/11/1986. Ngôi đền thờ Bát Nạn Tướng Quân (Tướng quân phá nạn cho dân - có nơi gọi là Bát Nàn hay Bát Não) Vũ Thị Thục sinh năm 17, mất năm 43, một nữ danh tướng trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định, được phong: “Đông Nhung Đại Tướng Quân” có từ gần hai ngàn năm nay. Bát Nạn công chúa, đại tướng quân Đông Nhung là tước hiệu Trưng Vương phong cho Thục nương (Vũ Thị Thục) khi đánh thắng quân Hán. Thục Nương sinh ra tại quê ngoại vùng Hương Đa Cương (Nay thuộc xã Tân Tiến – Hưng Hà - Thái Bình), lớn lên tại quê cha (Phượng Lâu – Vĩnh Phúc), là người con gái xinh đẹp đoan trang có lòng yêu nước, thương dân lại ưa binh đao, võ nghệ nên bà đã ngầm lo việc cứu nước giúp dân. Tháng ba năm Canh Tý (năm 40 sau Công nguyên). Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà theo về giúp thống lãnh quân tiên phong. Nghĩa quân chiến thắng giòn giã. Năm 41, đất nước hoàn toàn giải phóng. Hai Bà Trưng lên ngôi vua đóng đô tại Mê Linh – Vĩnh Phúc, lấy hiệu là Trưng Vương. Đền Tiên La có các công trình chính như: Tam quan ngoại, Tam quan nội, Tiền tế, Trung tế và Hậu cung. Qua tam quan ngoại, sân Đền là tam quan nội, hai bên có Lầu cậu, Lầu cô; đi tiếp sẽ đến nhà Tiền tế gồm 5 gian, được kiến trúc bằng gỗ tứ thiết, nội thất được trạm trổ công phu với các hoa tiết như: “Long - Lân - Quy - Phượng ” đan xen “Thông - Trúc - Cúc - Mai ”. Tại đây còn có những đại tự với nội dung ca ngợi triều Trưng Vương và đức hạnh, tài sắc của nữ tướng Bát Nạn. Kế tiếp là nhà Trung tế được xây dựng theo kiểu nhà phương đình, kiến trúc “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng nhà đều bằng đá; toàn bộ hệ thống cột, kèo được chạm khắc rất tinh xảo, trong đó 4 cột cái chạm tứ linh; 12 cột quân chạm long vân; 8 xà chạm thông, trúc, cúc, mai; sườn cột và 8 kèo đá chạm điểm băng hoa dây và chữ Triện; đi sâu vào bên trong là hậu cung được kiến trúc bằng gỗ thứ thiết, gồm 3 gian, trong đó gian giữa là ngai và tượng thờ Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục, xung quanh thờ các tướng sỹ của Bà. Trên nóc hậu cung treo bức đại tự “Vạn cổ anh linh ”. Tương truyền, đây còn là nơi đặt mộ của bà Bát nạn tướng quân Vũ Thị Thục. Cùng với kiến trúc đặc sắc, Đền Tiên La còn lưu giữ nhiều đồ tế khí, đồ thờ có niên hạn từ thời Trần, Lê; Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân trước đây được tổ chức vào 15 đến 17 tháng ba âm lịch hàng năm. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự, Ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ đầu tháng ba, chính hội tổ chức vào ngày 17 âm lịch, trùng ngày hy sinh của Bà (ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão). Nguồn: Đài Phát Thanh Và Truyền Hình Thái Bình

Hưng Yên 3595 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Lưu Xá

Đền Lưu Xá là nơi thờ phụng hai danh nhân lịch sử thời Lý (Thế kỷ XII - XIII) là Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba. Chùa Báo Quốc là tên gọi của vua Lý đặt cho để tỏ lòng trọng vọng các quan đại thần có nhiều công lao giúp bốn triều vua Lý (Thái Tông - Thánh Tông – Nhân Tông – Thần Tông) xây dựng đất nước thịnh trị thời đó. Di tích đền Lưu Xá và chùa Báo Quốc liên quan chặt chẽ với nhau, hình thành cụm di tích vì đều chung một sự kiện lịch sử. Ngôi đền và chùa nằm gần nhau ở đầu thôn Lưu Xá – xã Canh Tân – huyện Hưng Hà – tỉnh Thái Bình. Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba là hai anh em khác mẹ, thân phụ của các ông là cụ Lưu Ngữ - Quê ở quận Cửu Chân (nay là xã Thiệu Trung – Thiệu Hóa – Thanh Hóa). Cụ Lưu Ngữ được làm quan đời tiền Lê (Hai triều vua Lê Hoàn và Lê Long Đĩnh) cai quản vùng đất ngã ba sông này. Nhận thấy đất Lưu Xá lúc ấy sau sông trước đầm, sông nước quanh co thế “Rồng chầu hổ phục” bèn lập cung ở đó rồi lấy vợ người bản quán. Lúc đầu lấy bà Trần Thị Ngọc, bà gần 40 tuổi mà chưa có con, cụ lại lấy bà họ Phạm. Sau đó hai bà mang thai và sinh con trong cùng một ngày chỉ khác là người sinh giờ Dần, người sinh giờ Ngọ, anh là Lưu Khánh Đàm, em là Lưu Khánh Điều (Lưu Ba). Cụ Lưu Ngữ lại đưa người thân từ quê ra ở đất Lưu Xá. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra vương triều Lý, các con của Lưu Ngữ sớm được tập ấm, nhập triều. Cả hai anh em đều làm quan đồng triều. Triều Lý vừa lập, giặc từ phương nam lấn tới, Lưu Khánh Đàm được vua Lý Thái Tổ giao cùng các tướng cầm quân đánh giặc, bắt sống vua nước Chiêm là Bố Hợp đem về. Phía Nam vừa yên thì phía Bắc giặc Tống lại lăm le lấn tới. Ông đã tâu với vua: “Mong bệ hạ đừng lo, sa giá bệ hạ thân chinh đế thị uy bốn biển, ngoài cõi, thần và nghĩa đệ cùng các tướng sỹ lo đánh giặc” thời Lý 3 lần giặc Tống vào đánh chiếm nước ta đều bị quân dân ta đánh bại. Thái Tổ xét Lưu Đàm là người đánh nam dẹp bắc, lại có “thiện kế” (kế giỏi), xướng xuất việc rời đô lên phong ông làm Thái Phó khai quốc công thần, giao cho ông dạy bảo thái tử Phật Mã. Thái Tổ mất, Thái Tông lên ngôi, Lưu Khánh Đàm tâu xin vua miễn phu dịch và thuế cho dân làng Lưu Xá. Khi Thái Tông băng hà, Thánh Tông lên ngôi phong cho Lưu Khánh Đàm làm Bình Chương sự, cuối đời Lưu Khánh Đàm về Lưu Xá sửa lại chùa làng và tu ở đó. Khi ở làng, cùng với sư Giác Hải, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tổ chức cho dân “Khai thông sông Luộc”, “Móc ruộc sông Sinh”, “Đào phình sông Hóa” ở Thái Bình. Khi ông mất vua Thánh Tông về dự lễ an táng, vì ông là khai quốc công thần nên vua ban tên chùa nơi ông tu hành là “Báo Quốc Tự”, ban cho ông tước vương, ban mĩ tự là “Chính trực chiêu cảm”, lại cho xây một tháp cao 9 trượng, 9 tầng ở bên lăng của Lưu Đàm vương. Dân làng Lưu Xá cảm ơn xây đền thờ và tôn ông làm Thành Hoàng làng. Lý Nhân Tông lên ngôi ban cho ông bốn chữ đẹp “Hiển ứng linh thông”, các triều sau đều có sắc phong thần cho ông. Đền thờ ông (đền Lưu Xá) và chùa Báo Quốc đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1990. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Bình

Hưng Yên 5114 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Keo Thái Bình

Chùa Keo (Thần Quang tự), thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Theo tư liệu lịch sử, năm Tân Sửu, niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh thứ 3 (1061) đời Lý Thánh Tông dựng chùa Nghiêm Quang trên đất Giao Thuỷ (làng Keo/ấp Keo), thuộc Nam Định ngày nay. Tháng 3 năm Đinh Hợi, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 5 (1167) đời Lý Anh Tông, chùa này được đổi tên thành chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611), một trận lụt lớn làm chùa bị trôi dạt, dân ấp Keo phải di dời đi 2 nơi: một bộ phận định cư ở phía Đông Nam - hữu ngạn sông Hồng (nay thuộc làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định); một bộ phận định cư ở phía Đông Bắc - tả ngạn sông Hồng (nay thuộc thôn Hành Dũng Nghĩa, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Như vậy, sau năm 1611, làng Keo (gốc ở Nam Định) được chia thành hai làng. Sau đó, hai làng dựng lại chùa, tên Nôm đều gọi là “chùa Keo”. Để phân biệt, dân gian thường gọi chùa Keo ở Thái Bình là Keo Thái Bình hoặc Keo trên; chùa Keo ở Nam Định là Keo Nam Định hoặc Keo dưới. Chùa Keo Thái Bình được dựng năm 1632, tên chữ là Thần Quang tự. Ngoài chức năng thờ Phật, chùa Keo Thái Bình cũng như chùa Keo Nam Định còn là nơi thờ Thánh Dương Không Lộ và những người có công lớn trong việc dựng. Chùa Keo (Thái Bình) thường mở hội 2 lần trong một năm. Hội xuân được tổ chức ngày mùng 4 tháng Giêng, mang tính chất của một lễ hội nông nghiệp. Chùa Keo Thái Bình gồm 21 hạng mục lớn, nhỏ (154 gian). Trải qua trên 300 năm, chùa đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941, 1957, 2004. Xét về quy mô, bố cục, đặc điểm và nghệ thuật kiến trúc, có thể coi chùa Keo (Thái Bình) là một trong những công trình sáng giá nhất trong hệ thống chùa dạng thức “tiền Phật hậu Thánh” cũng như dạng thức chùa “trăm gian” ở Việt Nam. Các hạng mục kiến trúc chính của di tích gồm: Tam quan ngoại gồm 3 gian, hai chái, khung gỗ, 4 chân hàng cột, mái lợp ngói mũi hài. Tam quan nội ở phía sau hồ nước (hình vuông), khung gỗ, gồm 3 gian, hai chái, 3 hàng chân cột, 4 bộ vì, mái lợp ngói mũi hài. Chùa thờ Phật được dựng trên mặt bằng hình chữ Công, gồm 3 toà (chùa Hộ/chùa Ông Hộ, Ống muống, Tam bảo). Đền Thánh được dựng theo dạng thức mặt bằng chữ Công, gồm 3 tòa: Thiêu hương (5 gian), Ống muống (3 gian), Thượng điện (5 gian). Phía trước đền là toà Giá roi (5 gian). Gác chuông được làm theo dạng thức chồng diêm cổ các, gồm có 3 tầng, 12 mái, khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài. Hai dãy hành lang Đông và Tây được dựng bao quanh chùa Phật - Đền Thánh, phía trước thông qua hàng dậu và Tam quan nội, phía sau kết nối với Gác chuông, hợp thành ô chữ Quốc. Hai dãy hành lang đều được dựng trên mặt bằng hình chữ L, kết cấu khung gỗ, mái lợp ngói, mỗi dãy 33 gian. Với những giá trị văn hóa, lịch sử, khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng chùa Keo là Di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc - Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hưng Yên 3337 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Lăng Mộ 3 Vua Trần (Di tích Quốc gia đặc biệt)

Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần thuộc phủ Long Hưng xưa, là vùng đất có vị thế địa lý - kinh tế - chính trị - văn hóa đặc biệt quan trọng, gắn với nhiều sự kiện lịch sử thời Trần và lịch sử dân tộc, là hậu phương, nền tảng vững chắc, để nhà Trần thay thế vai trò chính trị của nhà Lý. 1. Khu lăng mộ Vùng đất Long Hưng vốn là nơi dựng nghiệp của nhà Trần, vì thế đã được triều Trần đặc biệt chú trọng, phân phong cho các thân vương. Nơi đặt mộ tổ của họ Trần tại hương Tinh Cương (nay thuộc thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) tiếp tục được lựa chọn làm nơi an nghỉ của các vị vua đầu triều và hoàng tộc nhà Trần: Thái tổ Trần Thừa táng tại Thọ Lăng; Thái Tông táng tại Chiêu Lăng, Thánh Tông táng tại Dụ Lăng, Nhân Tông táng tại Đức Lăng. Sau khi Thái Tổ Trần Thừa mất, hương Tinh Cương chính thức được đổi tên thành Thái Đường (khu lăng tẩm của vua và hoàng tộc). Khu lăng mộ các vua Trần hiện nay có tổng diện tích 38.221m2, được nhân dân gọi là Phần Đa, Phần Trung, phần Bụt, tương ứng với Chiêu lăng, Dụ Lăng, Đức Lăng - nơi yên nghỉ của Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và 01 ngôi đền thờ Thượng hoàng Trần Thừa, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Cả ba lăng mộ đều đã được tôn tạo vào năm 2004. 2. Khu đền thờ Hiện nay, khu đền gồm các hạng mục: đền Vua (ở giữa), đền Thánh (ở phía Đông, bên tả đền Vua) và đền Mẫu (ở phía Tây, bên hữu đền Vua). Ba kiến trúc này đều quay hướng Nam, hướng về khu vực lăng mộ, được bố trí dàn hàng ngang, có chung sân lễ hội, đường nghi lễ, cửa chính (Ngọ môn). Đền Vua: được xây dựng với diện tích 6.498m2, nơi thờ ba vua đầu triều Trần (Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông), phối thờ Thượng hoàng Trần Thừa và các vị cao tổ, tằng tổ nhà Trần là Trần Kinh, Trần Hấp, Trần Lý, cùng hai người có công mở nghiệp nhà Trần là Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ. Đền quay hướng Nam, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, giếng ngọc, cổng sang đền Thánh, đền Mẫu, cổng vào phía sau đền, tiền tế, trung tế, hậu cung và hai tòa giải vũ. Đền Thánh: được xây dựng theo dạng thức truyền thống, diện tích 6.011m2, gồm các hạng mục: cổng, sân tế, lầu chiêng, lầu trống, tiền tế, phương đình, trung tế, hậu cung và giải vũ… Đền là nơi thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, phu nhân Nguyên Từ Quốc mẫu và hai con gái là Quyên Thanh Quận chúa, Đại Hoàng Công chúa. Đền Mẫu: thờ các vị quốc mẫu và công chúa đầu triều Trần, tổng diện tích 6.228 m2, với các hạng mục: giếng ngọc, bình phong, sân tế, giải vũ, tiền tế, trung tế và hậu cung… 3. Khu di tích khảo cổ học nhà Trần Khu di chỉ khảo cổ học Tam Đường (thời Trần), xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đã được khai quật khảo cổ nhiều lần, phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, với niên đại từ thời Lý đến Nguyễn, đặc biệt là nhóm hiện vật thời Trần,… minh chứng cho giá trị và sự tồn tại của di tích qua các thời kỳ lịch sử. Giá trị lịch sử - văn hóa của di tích còn được biểu hiện qua lễ hội truyền thống, được tổ chức thường niên tại khu vực đền thờ các vua Trần từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học đặc biệt, di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Hưng Yên 3866 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền Thờ Bà Chúa Muối

Đền thờ Bà Chúa Muối (tức đền thờ Tam phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh) là vợ Ba của vua Trần Anh Tông. Phủ và đền thờ bà Chúa Muối nằm ở xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Sách xưa chép lại: Bà Chúa Muối tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh, sinh năm 1280 tại trang Quang Lang, huyện Thụy Vân, phủ Thái Bình (nay là xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) trong một gia đình làm nghề muối. Từ thuở nhỏ, bà đã có tài mạo khác thường, chăm đọc sách vở và rất mực thông minh. Mỗi khi học xong Nguyệt Ảnh thường ra đồng giúp bố mẹ làm việc. Nhưng mỗi lần giúp bố mẹ thì bà đi đến đâu trời lại râm đến đấy, trong khi nghề làm muối phải có ánh nắng, nắng càng to thì muối càng đẹp. Lo lắng cho nghề truyền thống và kế sinh nhai của cư dân địa phương, những người cao tuổi trong làng đã họp nhau lại, bàn ra kế đóng cho bà một chiếc thuyền để mang muối đi buôn nơi khác. Trong một lần buôn, thuyền của bà đậu ở bến sông gần kinh thành Thăng Long, vừa hay lại đúng vào dịp vua Trần Anh Tông đi kinh lý qua sông. Cơ duyên như trời định, xiêu lòng trước vẻ đẹp của bà, vua đã đưa bà vào cung, hết mực sủng ái và cho làm Tam phi. Nhưng không may, bà không sinh được con rồi buồn phiền mà lâm bệnh. Sau đó, vua Trần Anh Tông đưa bà về quê ngoại với hy vọng có thể khiến bệnh tình của bà tiến triển tốt hơn. Thấy bà Chúa chiều nào cũng ngồi bên cửa sổ nhìn ra cánh đồng muối của làng, lũ trẻ mục đồng hò nhau lấy bồ cỏ làm người nộm vây quanh nhảy múa để bà vơi bớt nỗi buồn. Một chiều nọ, khi đang nhìn lũ trẻ nhảy múa rất vui, bà cười rồi thoát trần (ngày 14/4 năm Mậu Tuất). Nhà vua hay tin vô cùng thương xót, sắc phong cho bà làm Phúc thần và cho nhân dân lập đền thờ phụng mang tên Đền thờ Bà Chúa Muối. Qua thời gian, đền thờ đã bị hư hại và phá bỏ. Năm 1988, người dân trong vùng tạm xây lại một phủ nhỏ để thờ bà. Năm 2012, Bộ Văn Hoá Thể Thao Du Lịch đã khôi phục lại di tích này. Phủ hiện tại có 3 gian, có hậu cung và những hương án bàn thờ, tượng thờ; trong phủ có một số vật dụng đặc thù liên quan đến nghề làm muối như xe cút kít, gáo múc nước chạt, tang, cào muối trên sân phơi… đền Bà chúa Muối hiện còn lưu giữ một bức hoành phi sắc phong thời Trần và hai bộ câu đối cổ. Đền thờ là một công trình kiến trúc đặc biệt kết hợp giữa đền và chùa, tọa lạc trên mảnh đất Trang Quang Lang. Chùa quay hướng Bắc là nơi thờ Đức Phật Thích ca Mâu Ni. Đền quay hướng nam là nơi thờ thánh Mẫu Tam Phi Nguyễn Thị Nguyệt Ảnh (tức Bà Chúa Muối). Đây là một ngôi đền – chùa đẹp nhất mà trong bia đá năm 1596 có đoạn viết như sau: “Cổ tích Thái Bình hưng quốc tự, bản cổ truyền chi danh lam, bảo Nam bang chi thắng cảnh…” Nghĩa là: “Khu đền chùa Thái Bình Hưng Quốc là nơi danh lam cổ truyền, là địa danh thắng cảnh quý báu nhất dưới trời Nam…” Nguồn: Báo nông thôn Việt

Hưng Yên 5502 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Đồng Bằng

Đền Đồng Bằng tọa lạc bên dòng sông Diêm thuộc trang Đào Động, tổng Vọng Lỗ, huyện Phụ Phượng, nay là làng Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền có tên tự là Bắc Hải Linh Từ, nơi thờ Vua cha Bát Hải Động Đình - người có công lao to lớn trong việc bình Thục giữ nước và chiêu dân lập ấp, xây dựng giang sơn xã tắc thuở sơ khai. Đền Đồng Bằng được nhân dân biết đến là một ngôi đền linh thiêng có từ thời vua Hùng Vương thứ 18. Đền có sắc phong “Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Tục truyền rằng, vào đời vua Hùng Vương thứ 18, nước ta bị giặc ngoại bang xâm lấn, triều đình phải lập đàn để triệu Linh sơn Tú khí về giúp nước dẹp giặc. Khi ấy thủy thần làng Đào Động đã hiện thân phò vua dẹp giặc và có công đầu trong việc trấn giữ tám cửa bể phía Tây. Ngài được sắc phong là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng - Vĩnh Công Đại Vương Tối Thượng Đẳng Linh Thần”. Kể từ đó nơi đây là chốn địa linh được nhân dân bốn phương ngưỡng vọng và lập đền thờ. Vào thế kỉ XIII, làng Đào Động còn là một trong những phòng tuyến quân sự quan trọng của nhà Trần, đây là nơi đóng quân và luyện tập thủy chiến của quân binh. Trước khi ra trận, Hưng Đạo Đại Vương cùng các tướng sĩ đều đến dâng hương cầu nguyện tại ngôi đền. Sau khi mất đi, ông được nhân dân phối thờ tại đây. Kể từ đó, đền Đồng Bằng còn là nơi tưởng niệm Hưng Đạo Vương và các tướng sĩ nhà Trần trong ba lần đại phá quân Nguyên Mông và lập nên tám trang Đào Động xưa. Không chỉ mang những giá trị lịch sử đáng trân trọng, đền Đồng Bằng còn là di tích kiến trúc nghệ thuật có giá trị như một bảo tàng mỹ thuật đồ đồng, đồ đá và đồ gỗ với diện tích nội tự là 6.000m2, gồm 13 tòa, 66 gian liên hợp chặt chẽ với nhau tạo thành quần thể ngôi đền với kết cấu theo kiểu “tiền nhị hậu đinh” khép kín, bề thế. Các mảng kiến trúc hài hòa với những nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm hoành phi, câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thiếp vàng về các chủ đề tứ linh, tứ quý, các bộ lư hương, án thờ, long ngai và các công trình điêu khắc gỗ tinh xảo, tuyệt mỹ từ thời Khải Định, Bảo Đại vẫn còn được lưu giữ nguyên vẹn. Bởi những huyền tích, giá trị lịch sử, nghệ thuật mà đền Đồng Bằng được biết đến là ngôi đền linh ứng và bốn mùa hương khói. Đặc biệt, năm 1986 đền Đồng Bằng đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. Theo tục lệ hàng năm, lễ hội đền Đồng Bằng được tổ chức kéo dài khoảng một tuần từ ngày 20/8 đến ngày 26/8 âm lịch, lễ hội thu hút đông đảo con nhang đệ tử, nhân dân và du khách gần xa. Lễ hội đền Đồng Bằng lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống, giá trị nhân văn cao đẹp, là dịp để thể hiện lòng biết ơn, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và sự ngưỡng vọng, tôn kính của nhân dân đối với Đức Vua cha Bát Hải Động Đình và tưởng nhớ ngày mất của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình

Hưng Yên 5303 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật