Khu Du lịch di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia Thác Đa tang la, hay còn được gọi là Da tan la, là một thác nước nổi tiếng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam. Nằm trong khu du lịch Đa tan la, thác cách thác Prenn 8 km và trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 10 km. Thác Da tang la được xem là một trong những điểm đến lý tưởng cho những du khách muốn tham quan và trải nghiệm phiêu lưu mạo hiểm. Tên gọi “Đa tang la” hay “Đa tang la” được lấy từ tiếng K’Ho, được hợp thành từ “Đạ-Tam-N’ha”, có ý nghĩa là “dưới lá có nước”. Tên gọi này có nguồn gốc từ cuộc xung đột lịch sử giữa các dân tộc Chăm – Lạch – Chil trong thế kỷ XV. đến thế kỷ XVII. Thác Da tang la có lượng nước dồi dào nhờ vào nguồn nước ổn định từ thượng nguồn. Không ồn ào như một số thác khác, Da tang la chảy qua nhiều thềm đá và đổ từ ghềnh cao khoảng 20m. Phần dưới của thác tạo thành khu vực nước rất trong, được gọi là Suối Tiên, trong khi phần trên có một vực sâu gọi là Vực Tử Thần. Theo truyền thuyết, vì vực sâu này nằm giữa một vùng đồi núi, nên đã từng là nơi lánh nạn cho một cánh quân của dân tộc bản địa trong cuộc chiến tranh với người Chăm hàng trăm năm trước. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của thác Đa tang la. Một trong số đó kể về cuộc gặp gỡ của dũng sĩ K`Lang và nàng sơn cước Hơbilang tại đây. Một số truyền thuyết khác về thác Đa tang la cho rằng thác là nơi mà các nàng tiên thường tắm, hoặc câu chuyện về cuộc chiến tranh giữa người Lạt và người Chăm, trong đó thác đóng vai trò quan trọng trong chiến lược chiến đấu của họ. Với những giá trị văn hóa đó mà vào năm 1998, thác Đa tang la đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 3640 lượt xem
Thác Cam Ly nằm cách thành phố Đà Lạt 2km về phía Tây. Đây được xem là thác nằm gần trung tâm thành phố nhất. Thác Cam Ly nằm cạnh dòng suối Cẩm Lệ, thác được hình thành từ một phần dòng nước chảy vào từ hồ Xuân Hương và một dòng suối khác là suối Cam Ly cũng chảy vào đây. Thác Cam Ly là một trong những con thác được nói về sự tưởng nhớ, sự biết ơn, sự kính trọng của người dân nơi đây đối với người có công trong thời kỳ đó. Truyền thuyết kể rằng, thác Cam Ly có nguồn gốc từ tiếng K’Ho. Người dân trong bộ tộc Lạch (Lạt) gọi thác Cam Ly là Liêng Tô Sra - ranh giới của dòng suối Cẩm Lệ đến sông Đạ Đờng. Người dân trong buôn làng mới lấy tên của vị tù trưởng của bộ tộc Lạch (Lạt) lúc đó là K'Mly để tưởng nhớ, thể hiện sự biết ơn của dân làng đối với vị tù trưởng này. Vị tù trưởng này đã lo bữa ăn giấc ngủ của cả bộ tộc, sống chan hoà với các người dân, lo lắng cuộc sống của người dân trong làng trở nên ấm no, sung túc, đầy đủ. Nên tên của vị tù trưởng này được đặt cho con thác là K’MLy sau này đọc chạy (đọc trại) là Cam Ly. Còn theo nguồn gốc của tiếng Hán Việt thì Cam Ly có nghĩa là dòng suối có nước ngọt (Cam là ngọt, Ly là thấm vào). Thác Cam Ly sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, đặc biệt vào mùa mưa khi nước chảy cuồn cuộn, tạo ra những khối nước khổng lồ đổ xuống dữ dội. Với vị trí thuận tiện gần trung tâm thành phố, thác Cam Ly thu hút đông đảo du khách ghé thăm hàng năm . Dưới chân thác Cam Ly là một vườn hoa nhỏ, góp phần tạo nên một phong cảnh hài hòa và đẹp mắt. Ngoài ra, trong khu vực thác còn có lăng Nguyễn Hữu Hào, được xây dựng với nhiều kiến trúc độc đáo. Vào năm 1998, Thác Cam Ly đã được nhà nước ta xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 3655 lượt xem
Khi nhắc đến Đà Lạt, không ai là không biết đến Hồ Xuân Hương, một hồ nước tuyệt đẹp nằm ngay tại Trung tâm thành phố Đà Lạt. Hồ Xuân Hương là một hồ nước nhân tạo, có chu vi khoảng 5km và rộng 25ha. Hồ có hình dáng của mặt trăng lưỡi liềm, kéo dài hơn 2 km và đi qua nhiều điểm du lịch nổi tiếng của Đà Lạt như Vườn hoa thành phố, Công viên Yersin, Đồi Cù và Quảng trường Lâm Viên. Theo người dân nơi đây thì nguồn gốc cái tên Hồ Xuân Hương đến từ 2 truyền thuyết khác nhau. Truyền thuyết đầu tiên cho rằng, cứ vào mùa xuân, xung quanh hồ lại có một mùi hương thơm thoang thoảng, ngây ngất lòng người. Chính vì vậy mà người dân đã đặt cho hồ cái tên là Hồ Xuân Hương. Tuy nhiên, truyền thuyết thứ 2 cho rằng, Hồ Xuân Hương được đặt theo tên của một nữ thi sĩ người Việt vào thế kỉ 19 có tên là Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương là tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Bánh trôi nước, cái kiếp tu hành, cái nợ chồng con,…. Hồ Xuân Hương ban đầu là một thung lũng rộng lớn, và có dòng suối Cam Ly chảy qua. Năm 1919, kỹ sư Lab-bê đã ngăn dòng suối này để nước tích tụ và tạo thành hồ. Sau đó, vào năm 1923, các kỹ sư người Pháp đã cho xây dựng một đập được xây dưới đáy hồ, nhưng bị vỡ sau một cơn bão vào năm 1932. Kỹ sư Trần Đăng Khoa sau đó đã cho xây dựng lại một đập mới bằng đá. Vào năm 1989, Hồ Xuân Hương đã được nhà nước ta công nhận là một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử ở Đà Lạt nổi tiếng, được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 4257 lượt xem
Hồ Tuyền Lâm được hình thành từ những năm 1985 - 1986. Khi đó, UBND tỉnh Lâm Đồng và Huyện Đức Trọng thực hiện ra quân đắp đập để giữ nước của khu vực Suối Tía. Xung quanh của khu vực dòng chảy Suối Tía là các dãy núi bao quanh tạo thành lòng chảo, khi đắp đập giữ nước lại tạo thành Hồ Tuyền Lâm như ngày nay. Lúc ban đầu, mục đích chính của Hồ Tuyền Lâm là tích nước sử dụng chính cho công tác tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp của vùng hạ lưu - khu vực xã Hiệp An, Định An thuộc huyện Đức Trọng của tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 1998, khi Hồ Tuyền Lâm được Bộ Văn hoá Thể thao Và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Thắng cảnh quốc gia ngày 31/8/1998, khu vực Hồ Tuyền Lâm càng được quan tâm, chú trọng nhiều hơn, không chỉ phục vụ cho mục đích tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp mà còn được các cơ quan từ Trung ương đến địa phương định hướng quy hoạch phát triển du lịch. Hồ Tuyền Lâm có diện tích 350ha; cách trung tâm thành phố Đà Lạt hơn 6km về phía Nam. Khu vực Hồ Tuyền Lâm có khí hậu trong lành, không gian yên tĩnh, cảnh quan tự nhiên (rừng, núi, hồ, suối, thác,…) đa dạng, quyến rũ và có nhiều yếu tố nhân văn hấp dẫn, hứa hẹn trở thành khu du lịch có quy mô lớn với nhiều loại hình du lịch đặc sắc như: tham quan thắng cảnh, cắm trại, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, đi bộ, leo núi, câu cá, lễ hội - tín ngưỡng, vui chơi giải trí, thể thao,…đặc biệt là loại hình du lịch sinh thái. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lượt, với đặc diểm vị trí và địa hình khu vực Suối Tía (Hồ Tuyền Lâm ngày nay) và Núi Voi là căn cứ quan trọng nhất của phong trào cách mạng thành phố Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức. Khu căn cứ địa này có vai trò là nơi chỉ đạo các phong trào đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang của quân và dân thị xã Đà Lạt và tỉnh Tuyên Đức, nơi dừng chân tập kết, huấn luyện các lực lượng vũ trang, các đội công tác của Tỉnh và quân khu, là bàn đạp để các lực lượng tấn công vào Đà Lạt và cơ động đánh địch ở các mặt trận trong tỉnh Tuyên Đức. Trong kháng chiến chống Mỹ ngoài cơ quan Thị ủy còn có các đơn vị đóng quân như Ban Kinh tài, bệnh xá, các Đội công tác phụ nữ, thanh niên học sinh, Đội công tác nội thị, Đội biệt động thị 850, 852, 860… và các cơ quan lãnh đạo, đơn vị tiền phương của tỉnh như Tỉnh Uỷ, Tỉnh Đội, hậu cần, Trạm hành lang, Đại đội 810 (sau thành Tiểu đoàn 810), Đội an ninh Tỉnh và lực lượng của Khu 6 như Tiểu đoàn 186, 145, 200C. Từ năm 1982 đến năm 1987, công ty Thuỷ lợi Lâm Đồng, được Bộ Thuỷ lợi đầu tư, xây dựng một đập nước dài 235m chắn ngang suối Tía tạo thành hồ Quang Trung, về sau đổi tên thành hồ Tuyền Lâm. Đến năm 2017, Thủ tướng Chính phủ Công nhận Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là Khu du lịch quốc gia . Khu du lịch Quốc gia Hồ Tuyền Lâm được UNESCO vinh danh là “Khu du lịch tiêu biểu châu Á - Thái Bình Dương” trong Chương trình diễn đàn “Giao lưu văn hóa và kinh tế Việt Nam - Ấn Độ”. Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm có tài nguyên du lịch phong phú bao gồm cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên rừng, khí hậu, các giá trị văn hóa, kiến trúc; kết cấu hạ tầng được đầu tư, tôn tạo cùng với các dự án đang tiếp tục triển khai đầu tư đã và đang phát huy giá trị, góp phần khẳng định vị trí Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm trên bản đồ du lịch Việt Nam với sự đa dạng các loại hình du lịch. Nguồn: Ban Quản lý Khu du lịch quốc gia Hồ Tuyền Lâm
Lâm Đồng 3950 lượt xem
Hồ Than Thở nằm cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 6 km về phía đông, gần trường Võ Quốc gia Đà Lạt (hiện nay là Học viện Lục quân). Hồ nằm trên một đồi cao giữa rừng thông, mang lại không gian yên bình và tĩnh lặng. Phía bắc của hồ có một cặp cây thông gợi lên hình ảnh đôi tình nhân, gần thắng cảnh Đồi thông hai Mộ với truyền thuyết về một mối tình tan vỡ. Ban đầu, khu vực hồ Than Thở chỉ là một cái ao nhỏ, và được gọi là Tơnô Pang Đòng. Tuy nhiên, vào năm 1917, người Pháp đã xây dựng một cái hồ tại nơi đây để cung cấp nước sinh hoạt cho Đà Lạt. Người Pháp đã đặt tên hồ nước là Lac Des Soupirs (nghĩa là “hồ tiếng rì rào” trong tiếng Pháp). Tuy nhiên, sau này, hồ được ông Nguyễn Vỹ, chủ tịch Hội đồng thị xã Đà Lạt, đổi tên thành hồ Than Thở nhằm thể hiện sự thương xót với truyền thuyết về chuyện tình yêu lãng mạn giữa Hoàng Tùng và Mai nương vào những năm của thế kỷ 18 tại nơi đây. Hồ Than Thở đã trải qua không ít những thăng trầm trong lịch sử. Từ việc khai hoang núi rừng vào những năm 1980 – 1990, cho đến quá trình bảo tồn và phục hồi vào cuối năm 1990. Vào năm 1999, Hồ Than Thở đã được nhà nước ta công nhận và xếp hạng là danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 3812 lượt xem
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được thành lập vào ngày 3 tháng 9 năm 1976 theo quyết định của Bộ Giáo dục. Trường được bộ Giáo dục giao nhiệm vụ trở thành trung tâm đào tạo giáo viên cấp 2 cho tỉnh Lâm Đồng cũng như một số tỉnh lân cận. Ban đầu, trường có tên là Grand Lycée Yersin, được người Pháp xây dựng từ năm 1927 dành cho những công dân người Pháp và một số gia đình giàu có theo học. Tòa nhà chính của trường được thiết kế và xây dựng theo phong cách độc đáo và đã được công nhận bởi Hội Kiến trúc sư thế giới. Sau chiến thắng chiến dịch Hồ Chí Minh 30/4/1975, trường được chính quyền Việt Nam thu hồi và chuyển thành Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt. Hiện nay, các công trình của trường đã được sửa chữa và nâng cấp, với việc thay thế tấm ngói lợp mới. Điểm đặc biệt của trường nằm ở chiếc tháp chuông cao 54 mét và dãy nhà hình vòng cung độc đáo. Vào năm 2001, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt đã được nhà nước ta công nhận là một trong những di tích lịch sử ở Đà Lạt được công nhận là di tích cấp quốc gia. Tháng 8 năm 2022, trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt đã được sáp nhập với trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Lâm Đồng và trường Cao đẳng nghề Đà Lạt, sau đó đổi tên thành trường Cao đẳng Đà Lạt theo quyết định của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Đà Lạt
Lâm Đồng 3486 lượt xem
Ga Đà Lạt không chỉ là một công trình kiến trúc đặc sắc của thành phố Đà Lạt, mà còn là nơi ghi dấu ấn đặc biệt trong lịch sử ngành Đường sắt Việt Nam. Ga Đà Lạt nằm trên đường Quang Trung (phường 10, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng), cũng là nhà ga xe lửa duy nhất của khu vực Tây Nguyên. Ga Đà Lạt gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển đô thị “xứ ngàn thông”, được coi là nhà ga xe lửa cổ đẹp nhất Việt Nam và Đông Dương. Ga Đà Lạt được xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938, nằm trong tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt, kết nối thành phố cao nguyên với Phan Rang (Ninh Thuận). Tuyến đường sắt này dài 84km, độ chênh cao toàn tuyến là 1.500m, được khởi công từ năm 1908 theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Năm 1932, tuyến đường hoàn thành cũng là thời điểm xây dựng ga Đà Lạt. Toàn tuyến có 12 nhà ga, 5 hầm chui, là một tuyến đường sắt đặc biệt bởi có 16km đường sắt răng cưa leo dốc, với độ dốc trung bình 12%. Khi ấy, đường sắt và đầu máy có bánh xe răng cưa chỉ có ở Thụy Sĩ và Việt Nam. Năm 1972, tuyến đường sắt này bị chiến tranh phá hủy. Năm 1975, đất nước thống nhất, tuyến này được khôi phục nhưng chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn do hiệu quả kinh tế kém. Hệ thống đường ray, dấu vết đường sắt răng cưa bị tháo bỏ. Các nhà ga bị bỏ hoang. Nhà ga Đà Lạt được thiết kế bởi hai kiến trúc sư người Pháp là Moncet và Revéron, với kiến trúc đậm tính bản địa. Cấu trúc công trình mạch lạc, khoa học song hình thức rất tinh tế. Công trình có bố cục đối xứng, với khối kiến trúc ở giữa mô phỏng 3 đỉnh của núi Langbiang và những mái nhà rông Tây Nguyên; hai bên là hai khối kiến trúc trải dài. Chính giữa công trình, bên ngoài, dưới mái có mặt đồng hồ to ghi lại thời gian bác sĩ Alexan drây Yersin phát hiện ra Đà Lạt. Ở khối giữa, phía trước có hai sảnh, một dành cho hành khách và một là sảnh hàng hóa. Giữa hai lối đi này là nơi chờ tàu. Khối kiến trúc giữa này chỉ có 1 tầng với không gian rộng và chiều cao lên tới mái. Về tổng thể, kiến trúc công trình hài hòa với thiên nhiên và là một điểm nhấn đô thị độc đáo. Ga Đà Lạt được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia năm 2001. Hiện nay, nhà ga Đà Lạt đã bị tách khỏi hệ thống đường sắt quốc gia Việt Nam, nhưng vẫn là một điểm du lịch hấp dẫn. Nhà ga duy trì một đoàn tàu du lịch gồm 1 đầu máy và 4 toa đi - về tới ga Trại Mát (phường 11, thành phố Đà Lạt), nằm ở phía đông, cách Đà Lạt 7km, đi mất khoảng 25 phút. Trên cung đường này, du khách có thể ngắm nhìn phong cảnh ngoại ô lãng mạn của thành phố. Ở điểm cuối là ga Trại Mát, du khách có thể tới tham quan chùa Linh Phước (còn gọi là chùa Ve Chai) - một ngôi chùa nổi tiếng, độc đáo. Bên cạnh đó, ga Đà Lạt vẫn bán vé liên vận trên tuyến đường sắt Thống Nhất, đi từ ga Nha Trang (Khánh Hòa) và phục vụ xe ô tô trung chuyển Đà Lạt - Nha Trang. Cùng với các công trình nổi tiếng của Đà Lạt như: Nhà thờ Chính tòa, dinh Bảo Đại, Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt..., ga Đà Lạt là điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách khi đến thành phố Đà Lạt. Tại đây còn trưng bày đầu tàu hơi nước cổ và một quán cà phê nằm trong một toa tàu. Khung cảnh lãng mạn cùng kiến trúc cổ kính của nhà ga là nơi mà nhiều người tới “săn” những tấm ảnh đẹp Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam
Lâm Đồng 4252 lượt xem
Ngày 4/1/2023, Di tích lịch sử khu vực Đồn Biên phòng Bu P'răng nằm ở bon Đắk Huýt và bon Bu P'răng 2, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Đài tưởng niệm liệt sĩ – nơi ghi danh và tri ân 16 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1977. Để phục vụ nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, ngày 20/5/1975, Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng (tiền thân của Đồn biên phòng Cửa khẩu Bu P’răng) được thành lập, với quân số ban đầu là 32 cán bộ, chiến sĩ công an vũ trang được chi viện từ tỉnh Sơn La vào. Lúc bấy giờ, đồn được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia với đoạn biên giới dài 16,5 km, thuộc xã Quảng Trực (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Lắk cũ) nay là huyện Tuy Đức (Đắk Nông), giáp với tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, cán bộ, chiến sĩ đã kiên cường bám trụ, dũng cảm chiến đấu 127 trận, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Mốc son lịch sử thể hiện tinh thần quả cảm của các chiến sĩ lúc bấy giờ là trận đánh kéo dài 47 ngày đêm (từ ngày 29/3 đến 16/5/1978) với bọn Pôl Pốt. Cuộc chiến đấu thắng lợi, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nói trên thể hiện sự đoàn kết, ý chí quyết tâm chiến đấu và sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng. Với chiến công đó, ngày 6/11/1978, Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng đã vinh dự được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Đồn biên phòng cửa khẩu Bu P’răng đóng quân trên địa bàn huyện Tuy Đức, cách trung tâm huyện 35 km, được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chính diện 11 km đường biên giới, phụ trách bon Bu P’răng 2 thuộc xã Quảng Trực (Tuy Đức). Với tinh thần “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, cấp ủy, chỉ huy đơn vị đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch của cấp trên về nhiệm vụ, công tác biên phòng. Theo đó, cùng với xây dựng đầy đủ các văn kiện tác chiến, đồn thường xuyên tổ chức luyện tập các phương án, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời mọi tình huống nảy sinh trên biên giới, địa bàn, trạm cửa khẩu. Chỉ tính trong 2 năm 2020-2021, đồn đã tổ chức 676 đợt tuần tra, kiểm soát, bảo vệ biên giới với 6.084 lượt cán bộ, chiến sĩ, qua đó phát hiện và xử lý 10 vụ/11 đối tượng vi phạm biên giới. Là đồn cửa khẩu, đơn vị duy trì hoạt động kiểm soát xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu qua cửa khẩu chặt chẽ, đúng luật pháp, đồng thời tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác đối ngoại nhân dân, duy trì ổn định và phát triển quan hệ hợp tác hai bên biên giới. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Nông Thôn Mới - Tỉnh Đăk Nông
Lâm Đồng 3716 lượt xem
Cầu Sêrêpôk do người Pháp xây dựng vào năm 1941, hoàn thiện, đưa vào sử dụng năm 1957 và được chính quyền Pháp đặt tên là cầu 14 (cầu nằm trên tuyến đường 14), còn người dân địa phương đặt tên là cầu Sêrêpôk vì bắc qua sông Sêrêpôk nối liền hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Đầu cầu phía đông thuộc xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; còn đầu cầu phía đông thuộc xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Năm 1904, thực dân Pháp bắt tay xây dựng bộ máy cai trị, thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk và chia cao nguyên Đắk Lắk thành năm quận. Trong quá trình xâm lược, thực dân Pháp đã nhận thấy sự khó khăn trong việc di chuyển trên con đường huyết mạch, làm ảnh hưởng đến ý đồ xâm chiếm mở rộng lãnh thổ. Năm 1941, chính quyền thực dân Pháp quyết định xây dựng cầu 14 và cây cầu được xây dựng bằng xương máu của các tù nhân chính trị ở nhà đày Buôn Ma Thuột, người dân địa phương. Cầu được thiết kế với kết cấu giàn bê tông cốt thép liên tục chạy dưới, dài 169,5 m, có 4 nhịp, rộng 5 m, hai làn đường cho người đi bộ 1,37 m, làn đường xe chạy là 2,8 m, tải trọng 5 tấn. Vào những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ 20 thì cầu Sêrêpôk thuộc loại hiện đại và có kiến trúc đẹp. Bước sang giai đoạn 1954-1975, tuyến đường 14 được đế quốc Mỹ và ngụy quyền khai thác triệt để, bố trí lực lượng chốt chặn nhằm kiểm soát, ngăn chặn mọi nguồn lực của bộ đội Việt Nam. Cũng chính tại nơi đây, quân và dân ta mở mũi tiến công quan trọng tiến về giải phóng Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) rồi hướng về Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1985, trước tình hình phát triển của vận tải đường bộ, cầu Sêrêpôk xây dựng từ thời Pháp không thể tiếp tục đáp ứng được nhu cầu vận chuyển về cả tải trọng và mật độ phương tiện nên Bộ Giao thông vận tải quyết định đầu tư xây dựng cây cầu mới thay thế cho cầu cũ tải trọng nhỏ và đã xuống cấp. Cầu Sêrêpôk mới được xây dựng trên Quốc lộ 14, cách cầu cũ 30 m về phía bắc. Cầu dài 176 m, có kết cấu bê tông cốt thép dầm giản đơn, gồm 5 nhịp, chiều rộng 11 m, có 2 làn xe cơ giới rộng 7 m và 2 làn đi bộ rộng mỗi làn 1,25 m. Công trình do Khu Đường bộ 5 làm chủ đầu tư và Công ty Công trình Giao thông 510 của Tổng công ty Công trình Giao thông 5 thuộc Bộ Giao thông vận tải thi công. Cầu được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 10 năm 1992. Từ đó, các phương tiện lưu thông trên quốc lộ 14 đều qua cây cầu mới. Vào năm 2016, một cây cầu thứ ba nằm giữa hai cầu cũng đã được hoàn thành phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng tăng trên Quốc lộ 14. Với ý nghĩa đó, cầu Sêrêpốk được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Đắk Nông chọn làm điểm di sản của Công Viên Địa Chất Đắk Nông thuộc tuyến du lịch “Bản giao hưởng của làn gió mới”. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử
Lâm Đồng 3820 lượt xem
Đồi 722 – Đắk Sắk là căn cứ biệt kích của Mỹ - Ngụy thiết lập năm 1965. Đây là nơi diễn ra trận chiến ác liệt của bộ đội chủ lực cùng lực lượng quân sự địa phương tiến công tiêu diệt căn cứ biệt kích vào ngày 22 và 23/8/1968. Đồi 722 ở độ cao 722m so với mặt biển trên địa bàn thôn Thổ Hoàng 4, xã Đắk Sắk, huyện Đắk Mil,. Tháng 5/1965, Mỹ - Ngụy và chính quyền Sài Gòn cho xây dựng căn cứ quân sự Đồi 722 (còn gọi là trại lực lượng đặc biệt Đức Lập) cách trung tâm quận Đức Lập khoảng 10 km về hướng Đông nhằm tăng cường lực lượng và gia tăng các hoạt động quân sự. Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch, năm 1968 Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên xác định cần phải tiêu diệt địch tại chi khu quận lỵ Đức Lập mà nòng cốt là cứ điểm quân sự Đồi 722 - Đắk Sắk, một trong số sào huyệt trọng yếu của địch trên mặt trận Tây Nguyên. Thực hiện chủ trương đó, trong suốt những năm 1968 đến 1975 bộ đội chủ lực ta phối hợp với quân dân địa phương tổ chức nhiều trận đánh vào cứ điểm này, một mặt làm tiêu hao lực lượng sinh lực địch, mặt khác nhằm đánh phá hệ thống đồn bốt đang án ngự phá hoại đường Hồ Chí Minh trên chiến trường Nam Tây Nguyên. Sau năm 1968, qua nhiều thất bại nặng nề ở chiến trường Nam Tây Nguyên, địch lui về cố thủ trong các cứ điểm quân sự, trong đó địa bàn Đồi 722 - Đắk Sắk là cứ điểm quân sự trọng yếu. Từ đây, chúng tiếp tục thực hiện chính sách dồn dân lập ấp. Trước tình hình đó, để giữ vững thế trận, Tỉnh ủy Quảng Đức chỉ đạo Huyện ủy Đắk Mil, quyết tâm vượt qua khó khăn, thực hiện “ba bám” (cán bộ bám dân, dân bám đất và du kích bám địch) tiếp tục đấu tranh với địch, đẩy mạnh xây dựng hậu cứ, tăng gia sản suất, bảo đảm cung cấp lương thực cho mặt trận; mở rộng vùng giải phóng, đẩy địch vào thế co cụm, cùng với Nhân dân cả nước sẵn sàng chiến đấu. Đến năm 1975, cứ điểm Đắk Sắk, Đức Lập bị quân ta xóa sổ hoàn toàn. Sau ngày giải phóng, để tưởng nhớ sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ ta tại Đồi 722 - Đắk Sắk nói riêng, trong chiến dịch Đức Lập mùa thu 1968 nói chung, tỉnh Đắk Nông đã lập Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Ngày 24/10/2012, di tích Đồi 722 - Đắk Sắk được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Di tích lịch sử Đồi 722 - Đắk Sắk có tổng diện tích gần 4 ha, trên di tích này vẫn còn lại một số di vật, quân trang quân dụng, như giày, mũ, vỏ đạn. Năm 2010, khu vực I của di tích đã được Nhà nước đầu tư xây dựng nhà bia tưởng niệm, khuôn viên cây xanh và tường rào với tổng diện tích đầu tư xây dựng 2.485m2. Hàng năm, di tích phục vụ khoảng trên 1.000 lượt khách đến viếng thăm, học tập. Đây là di tích lịch sử có ý nghĩa trọng đại trong giáo dục truyền thống, ý thức chính trị cho thế hệ trẻ, tri ân công lao to lớn của các bậc cha anh. Là một trong những mốc son lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng bộ, Nhân dân tỉnh Đắk Nông nói riêng và Việt Nam nói chung. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử
Lâm Đồng 3618 lượt xem
Căn cứ vào sử liệu địa phương và lời kể của một số già làng ở Krông Nô thì N’Trang Gưh, tên thật là Y Gưh, là người dân tộc Ê đê, sinh khoảng năm 1845, tại buôn Choáh Kplang, nay thuộc xã Buôn Choáh (Krông Nô). Tương truyền, N’Trang Gưh là người tài cao, đức rộng và là một thành viên săn bắn giỏi của buôn nên có nhiều của cải quý giá như sừng tê giác, ngà voi. Không những thế, ông còn biết tính toán làm ăn giỏi nên mỗi khi đến mùa luôn thu được nhiều lúa, ngô, nuôi được nhiều trâu, bò, heo, gà... có uy tín trong buôn gần, làng xa, được mọi người yêu quý. Ngoài giàu có về của cải, ông còn là người giàu lòng thương người vì luôn hướng dẫn bà con những kinh nghiệm săn bắt, chăn nuôi, trồng trọt và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, hoạn nạn, mất mùa. Năm 1884, quân Xiêm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, đánh chiếm vùng hạ lưu sông Krông Nô và Krông Ana. Hưởng ứng lời kêu gọi của N’Trang Gưh, người dân ở 20 buôn người Bih sống trên lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana đã đứng lên chống ngoại xâm. Nghĩa quân do N’Trang Gưh chỉ huy có đến 600 người, không có súng, chỉ dùng các loại vũ khí thô sơ: cung tên, giáo mác… Nhằm tăng thêm sức mạnh, N’Trang Gưh đã tạo ra một loại nỏ khá đặc biệt, chưa ở đâu có. Nỏ có chiều dài quá đầu người, thành nỏ rộng một gang tay, mỗi lần bắn ra 3 mũi tên. Với thứ vũ khí lợi hại này, cộng với tinh thần dũng cảm, kiên cường và mưu trí, năm 1887, nghĩa quân N’Trang Gưh đã bao vây tiêu diệt toàn bộ quân Xiêm ngay trên cánh đồng buôn Tur và buôn Phok. Chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân N’Trang Gưh đã đập tan cuộc xâm lược của quân Xiêm, giúp đồng bào yên tâm lao động sản xuất, xây dựng buôn làng. Những năm đầu thế kỷ 20, bộ máy cai trị của chính quyền thực dân Pháp đã thâu tóm và kiểm soát gần như toàn bộ số buôn, bon của đồng bào bản địa trên vùng đất Tây Nguyên. Buốc Gioa (Bourgeois), công sứ Pháp đầu tiên tại Đắk Lắk đã ngang nhiên dùng vũ lực quân sự xua đuổi người Ê đê, M’nông đi nơi khác, chiếm lấy buôn, bon, đất đai, nương rẫy, bến nước để thiết lập các đồn điền và xây dựng hệ thống đồn bốt. Đồng bào bị bắt vào làm phu trong các đồn điền của Pháp, mỗi ngày họ phải lao động từ 14 đến 15 giờ. Đầu năm 1900, quân Pháp đánh chiếm các buôn của người Bih dọc lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana. N’Trang Gưh đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu chống lại quân xâm lược, nổi tiếng nhất là trận tiêu diệt đồn buôn Tur. Vào một buổi sáng năm 1901, dưới sự chỉ đạo của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã vượt sông Krông Nô bao vây đồn Tur, dùng ná bắn được nhiều tên giặc rồi tấn công vào đồn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn bộ quân địch đồn trú tại đây bị tiêu diệt, tên thực dân Buốc Gioa, kẻ có nhiều nợ máu với nhân dân chết gục trước sân đồn. Thừa thắng, nghĩa quân tiếp tục tiến công, lần lượt tiêu diệt các đồn khác của thực dân như đồn buôn Jiăng, đồn buôn Dur... Với sự lãnh đạo tài tình và dũng cảm của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã chiến đấu trong suốt 13 năm. Năm 1914, do trong hàng ngũ nghĩa quân có người phản bội, địa điểm đóng quân của N’Trang Gưh bị tiết lộ, nên ông bị Pháp bắt, kết án tử hình. Sau khi N’Trang Gưh mất, thi thể của ông được nhân dân đưa về chôn cất tại quê hương, nơi ông sinh ra là buôn Choáh xã buôn Choah (Krông Nô). Để ghi nhớ địa điểm từng để lại nhiều dấu ấn lẫy lừng của người tù trưởng buôn làng Ê Đê, người anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên, ngày 2-8-2011, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã xếp hạng địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Krông Nô
Lâm Đồng 3761 lượt xem
Di tích lịch sử thôn Cây Xoài là Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông. Ngày 25/5/1959, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chính thức thành lập Đoàn B90, có nhiệm vụ bí mật vào Nam cùng với đơn vị tại chỗ xây dựng cơ sở, xoi mở hai tuyến đường phía Đông và phía Tây từ Nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ - nơi có Xứ ủy Nam Bộ. Vượt qua những khó khăn, hi sinh và cả những chuyến móc nối không thành công, cuối cùng, vào khoảng 16 giờ, ngày 30/10/1960, Đoàn công tác B90 đã bắt liên lạc với đoàn công tác C200 của miền Đông Nam Bộ tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 4/11/1960, tại ki-lô-mét 4 trên đường Đắk Song đi Gia Nghĩa, cánh phía Tây của Đoàn B90 tiếp tục bắt liên lạc với đơn vị C270 từ Đông Nam Bộ lên. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược, đường hành lang chiến lược Bắc - Nam được khai thông đã trở thành một điểm nút quan trọng giúp thông suốt tuyến đường Hồ Chí Minh, từ đây, tuyến vận tải quân sự chiến lược Đường Hồ Chí Minh như huyết mạch thông suốt từ Bắc chí Nam chi viện kịp thời sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1961 đến năm 1965, tuyến Đường Hồ Chí Minh thông suốt, hàng vạn con em đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc đã trở lại chiến trường; hàng loạt nhu yếu phẩm như bưu phẩm, công văn tài liệu, vũ khí, khí tài, kể cả thiết bị đài phát thanh giải phóng... đã được các chiến sĩ giao liên tuyến cánh Đông và cánh Tây đưa đón vận chuyển khẩn trương chi viện cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; đưa đón cán bộ cấp cao của Đảng vào Nam lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Mỹ. Qua một thời gian hoạt động, cơ sở ở Nam Tây Nguyên được mở rộng và nối liền các vùng có cơ sở ở Tây Khánh Hòa, Tây Ninh Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng và nối liền từ Đăk Mil đến chiến khu Đ. Bên cạnh đó, lực lượng hành lang Quảng Đức phối hợp với Campuchia mở rộng vùng kiểm soát dọc tuyến hành lang, tạo sự liên hoàn, phối hợp có hiệu quả các chiến trường trong kháng chiến. Để đạt được kỳ tích nối thông giữa các chiến trường, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không thể không nhắc đến vai trò của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã không quản hi sinh, gian khổ bảo vệ hành lang, che chở cho các lực lượng tham gia vận tải quân sự trên đường Trường Sơn, che dấu cán bộ, bảo vệ cách mạng, đảm bảo hoạt động thông suốt. Đó là những chàng trai, cô gái Đoàn H50 bám đường, bất chấp gian khổ, thiếu thốn; Là các đoàn dân công của địa phương bí mật gùi, thồ hàng hóa, vũ khí vượt qua những đèo cao, dốc đứng, cánh đồng lầy lội và đồn bốt nguy hiểm; Đó là hình ảnh 800 đồng bào ở căn cứ Nâm Nung phải ăn lá rừng, củ rừng để dành lúa, ngô, khoai, sắn giúp đỡ đội xoi đường và cán bộ, bộ đội đi trên hành lang, bất chấp sự nguy hiểm để nuôi quân, che chở các chiến sĩ cách mạng... Di tích lịch sử thôn Cây Xoài “Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông” là một trong những địa danh lịch sử gắn liền với kỳ tích của thế kỷ 20 - Đường Trường Sơn, được Nhà nước đầu tư xây dựng và hoàn thành vào ngày 23/3/2010. Ngày 02/8/2011, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch công nhận đây là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Ngày 30/10/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tổ chức Lễ tưởng niệm và đặt Bia ghi danh sách các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu, hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Nguồn: Đảng Ủy Khối Các Cơ Quan Và Doanh Nghiệp Tỉnh Đắk Nông
Lâm Đồng 6134 lượt xem
Các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào Mnông do người anh hùng N'Trang Lơng lãnh đạo là nơi ghi dấu chiến công hiển hách, oanh liệt chống ngoại xâm, thể hiện ý chí đấu tranh kiên cường, tinh thần bất khuất, đoàn kết, nghĩa tình của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Chiến tranh đi qua, nơi đây còn dấu tích hầm, hào, lũy, công sự... mang giá trị lịch sử - văn hóa trong việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho các thế hệ. Hiện nay, để ghi nhớ công ơn, chiến công đấu tranh chống giặc xâm lược, các cấp thẩm quyền đã xếp hạng, đầu tư, tu bổ, phục dựng lại một số địa điểm của phong trào đấu tranh do N'Trang Lơng tại huyện Tuy Đức và xây dựng tượng đài tại Thành phố Gia Nghĩa cụ thể như: 1. Dấu tích đồn Bu Méra có tổng diện tích 1 ha (100m - 100m), đồn trước đây được bố trí khá khoa học, gồm một cửa chính ở phía Tây - Bắc, rộng 2,5m và 2 cửa phụ (cửa thoát hiểm) phía Tây - Nam và Đông - Bắc thông theo đường hào chạy dọc xuống phụ lưu Đắk Buk So. Với diện tích tổng thể chỉ có 1 ha, nhưng đồn Bu Méra lại chứa đựng một tiểu quần thể sinh thái mang âm hưởng của núi rừng Tây Nguyên; có nhiều loại gỗ lớn, tuổi từ 70 đến 90 năm (là gỗ tái sinh, hầu như vẫn còn nguyên vẹn), cùng với nhiều loài chim, sóc, bò sát,… Hiện nay, di tích đã được phục dựng, tôn tạo với các hạng mục như hào, lũy, cổng,… để phục vụ khách tham quan du lịch. 2. Dấu tích bon Bu Nor với diện tích khoảng 7 ha, hiện nay nằm trong rừng phòng hộ của Lâm trường Quảng Tân với nhiều loại gỗ kích thước khá lớn, còn nguyên sinh. 3. Dấu tích "Bia Henri Maitre" được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Đăk Nông công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh, ngày 24 tháng 12 năm 2008 của UBND tỉnh Đăk Nông. Hiện nay, phần mộ của Henri Maitre vẫn nguyên vẹn. Mộ có diện tích khoảng 3m2, nơi cao nhất là 40cm (so với mặt đất), dấu tích phản ánh tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên; phản ánh ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc Đăk Nông dưới sự lãnh đạo mưu lược dũng mãnh của vị anh hùng dân tộc N'Trang Lơng. 4. Tượng đài Anh hùng N'Trang Lơng và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1912 - 1935 tại đồi Đắk Nu, phường Nghĩa Đức, Thành phố Gia Nghĩa. Ngày 27/08/2007, Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch. Nguồn: Sở Văn Hoá Thể Thao Và Du Lịch Đắk Nông
Lâm Đồng 3873 lượt xem
Khu di tích căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV thuộc thôn Tân Tiến, xã Nâm Nung (Krông Nô) hiện đang được đầu tư xây dựng, trùng tu gần hoàn thành. Không những là “địa chỉ đỏ” để lưu giữ, giáo dục truyền thống cách mạng mà khu di tích sẽ hứa hẹn trở thành một trong những điểm du lịch lịch sử-sinh thái hấp dẫn. Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV nằm giữa một vùng đồi núi chập chùng như ôm ấp và che chở các dấu tích của một thời lịch sử oai hùng. Nơi đây, tháng 12/1960, Tỉnh ủy Quảng Đức được thành lập trực thuộc Liên Khu ủy 5, dựa vào vùng căn cứ kháng chiến tại Nâm Nung gồm các buôn R’cập, Ja Ráh, Dốc Ju, Broah, Choaih, Fi Bri để lãnh đạo cách mạng. Khu căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV trong kháng chiến giữ vai trò vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương, là nơi xây dựng lực lượng cách mạng và tham gia sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, cho các vùng khác để cứu đói. Đồng thời, cũng là nơi tổ chức các trận đánh lớn ngay trên địa bàn căn cứ, làm tiêu hao sinh lực địch, khai thông đường hành lang chiến lược, phục vụ đắc lực cho chiến trường miền Nam. Với những chiến tích lịch sử oai hùng đó, ngày 17/3/2005, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV là di tích cấp Quốc gia. Để địa danh xứng tầm với vai trò, vị trí về lịch sử cách mạng, những năm qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đã tổ chức khảo sát, khoanh vùng di tích. Trên cơ sở đó, tỉnh cũng đã quyết định đầu tư hơn 28 tỷ đồng để xây dựng, trùng tu các hạng mục: khu công sự, khu văn phòng liên tỉnh IV, phòng làm việc Ban cán sự B4, hội trường, trạm quân y, cầu qua khu căn cứ, đường nội bộ khu căn cứ, khu khánh tiết (nhà lưu niệm, bia tưởng niệm, tượng đài) và trồng cây xanh, tạo cảnh quan môi trường ở khu căn cứ cách mạng Nâm Nung. Để phát huy giá trị lịch sử cách mạng, công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về giá trị to lớn của khu di tích đã được triển khai sâu rộng, từ đó, có ý thức bảo vệ, hiểu được tiềm năng du lịch văn hóa, lịch sử của quê hương. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử
Lâm Đồng 3967 lượt xem
Nằm dọc theo quốc lộ 14, cách trung tâm thị xã Gia Nghĩa khoảng 60 km, ngục Đắk Mil, nằm trong địa phận huyện Đắk Mil, là di tích lịch sử oai hùng còn mang đậm dấu ấn của thời gian. Nhà ngục Đăk Mil, được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia ngày 17 tháng 3 năm 2005. Năm 1940, phong trào Cách mạng nổ ra khắp nơi trong cả nước, do số lượng tù chính trị tại Nhà đày Buôn Ma Thuột ngày càng đông và để phục vụ thi công tuyến đường xuyên qua cao nguyên M’Nông bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột thực dân Pháp còn cho xây dựng Nhà ngục Đăk Mil, (nay thuộc huyện Đăk Mil, Đắk Nông) giữa một khu rừng già, nơi rừng thiêng nước độc dùng để giam tù chính trị. Nhà ngục Đăk Mil, trở thành một cơ sở cách mạng trên địa bàn huyện và đã chứng kiến nhiều lần vượt ngục của những người chiến sĩ Cộng sản Việt Nam Từ năm 1940 đến 1943, nơi đây đã giam giữ hàng trăm lượt chiến sĩ cộng sản, có thời điểm lên đến 120 người. Các chiến sĩ cách mạng bị đày ở Nhà ngục Đăk Mil, từ năm 1941 đến năm 1943: Chu Huệ, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Tạo, Trần Hữu Doánh, Trương Vân Lĩnh, Nguyễn Khải, Trần Tống, Lê Nam Thắng …. Cuối năm 1943 người Pháp chuyển toàn bộ số tù ở đây về nhà ngục Buôn Ma Thuột và cho phá hủy ngục Đăk Mil,. Nhà ngục Đăk Mil, thời xưa được dựng trên một khoảng đất giữa rừng núi u ám của huyện Đăk Mil,. Bên ngoài dãy Nhà ngục 9 gian thưng bằng gỗ, mái lợp tranh là hàng rào gỗ được chèn chặt bằng giây thép gai. Bên trong Nhà ngục lối đi được đặt ở giữa 2 dãy sàn gỗ có đủ cùm chân, xiềng tay, mỗi một chiếc cùm có treo 4 ống tre: 2 ống trên đựng nước uống, 2 ống dưới đựng nước tiểu và phân. Trải qua một thời gian dài, Nhà ngục Đăk Mil, đã bị đổ nát và trở thành phế tích. Hiện nay, vào ngày 31/12/2010, sau hơn hai năm tiến hành trùng tu, tỉnh Đắk Nông đã hoàn thành việc khôi phục, xây dựng Di tích lịch sử quốc gia Nhà ngục Đăk Mil, tại thôn 9A, xã Đắk Lao (Đắk Mil). Công trình do Bộ Văn Hoá Thể Thao và Du Lịch đầu tư với tổng kinh phí trên 9 tỷ đồng. Toàn bộ di tích nằm giữa khu dân cư đông đúc với diện tích khoảng gần 1 ha, với 2 hạng mục chính là nhà ngục và nhà trưng bày các hiện vật. Nhà ngục đã được tái hiện với diện tích tương tự nhà ngục trước đây thực dân Pháp đã dựng nên, hiện vẫn còn nền móng cũ. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Đắk Mil,.
Lâm Đồng 4965 lượt xem
Chùa Cổ Thạch (còn gọi chùa Đá Cổ, hay chùa Hang) tọa lạc ở xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong (Bình Thuận), trong khu vực bãi biển Cổ Thạch Với kiến trúc độc lạ trong một cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, chùa Cổ Thạch đã được công nhận là một di tích, thắng cảnh cấp Quốc gia của Việt Nam. Từ những năm 1835-1836, thiền sư Bảo Tạng tìm đến Bình Thạnh đã khai lập nên chùa Cổ Thạch và trụ trì nơi đây năm năm. Sau đó, vị thiền sư giao chùa cho các đệ tử trông coi, ông tiếp tục độc hành về phía Nam của Tổ quốc và dừng chân ở miền Đông Nam bộ (Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu). Ban đầu, chùa chỉ là một thảo am nhỏ vách ván, lợp lá, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo đến thời Thiệu Trị chùa được xây dựng lớn cả về không gian lẫn nghệ thuật và còn giữ hầu như nguyên vẹn đến ngày nay. Cho đến nay, dù đã trải qua 170 năm nhưng ngôi chùa vẫn còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa Hán Nôm; liễn; đối; hoành phi và nhiều tài liệu cổ quý giá. Trong số đó, Đại Hồng chung và trống sấm đã có niên đại từ đầu thế kỷ thứ 19. Khu vực chùa Cổ Thạch là một quần thể kiến trúc, am, điện, cốc liên hoàn với nhau trên khu đồi đá rộng hơn 4 ha. Đầu năm 1997, chùa xây dựng thêm nhiều tượng Phật Bà Quan Âm rải rác ven biển, tạo phong cảnh đẹp khi đứng trên chùa nhìn xuống. Đường vào cổng Tam quan gồm 36 bậc thang gắn kết bằng phiến thạch. Dưới chân bậc thang là đôi rồng uốn lượn hai bên. Bên phải chiếc cầu nơi cổng là bức tượng hình hổ ngồi và đối xứng qua là tượng voi nằm với kỹ thuật tạc tạo tinh vi. Chính điện chùa nằm trong quần thể núi đá tự nhiên, có khi nằm lọt thỏm giữa những tảng đá to. Kế đó là các nhà thiền, từ đường, nhà tổ, gác chuông, lầu trống, am cốc thờ tự, với những câu liễn phi, hoành đối khá ấn tượng và bảo quản tốt. Nhiều di sản văn hoá Hán Nôm, liễn, đối, hoành phi và những tài liệu có từ ngày tạo lập chùa. một số cổ vật có giá trị lịch sử văn hoá. Mỗi hang động thờ một vị Phật, hoặc Bồ tát, hoặc một nhà sư đã viên tịch. Ba phiến đá tự nhiên xếp thành hàng ngang trước khu chánh điện tạo dáng con cá kình (theo kinh của Phật gọi là con “ma kiệt”, một loài thủy quái được xem là hóa thân từ Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát để giúp đỡ ngư dân khi gặp nạn ở biển khơi). Ngôi chùa đi theo lối kiến trúc cổ xưa nên được bày phối với nhiều màu sắc sặc sỡ rất bắt mắt. Bởi vị trí địa hình là núi đá cao nên mỗi lối đi của ngôi chùa đều có các bậc thang lên xuống thoai thoải theo sườn dốc. Ngay phía dưới chân chùa là đại dương mênh mông tạo nên một cảnh quan sơn thủy hữu tình. Ngôi chùa Cổ Thạch nằm trên quần thể núi đá nên cũng có rất nhiều hang động đặc biệt. Tận dụng địa thế này, các thiền sư đã dùng chúng làm nơi thờ phụng.Trong mỗi hang động ở chùa Cổ Thạch đều thờ một vị Phật, Bồ tát hoặc một nhà sư đã viên tịch. Ở đây, có một hang động của Tổ sư – người đã khai sơn ra ngôi chùa này, phía ngoài tượng thờ Tổ sư còn có các bài vị có công lao xây dựng chùa. Kế bên đó là hang thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề. Trong hang động này có tượng Phật 8 tay và nhiều tượng cổ khác. Còn ở hang Tam Bảo, các thiền sư dùng để thờ phụng 23 pho tượng Phật cổ với nhiều kích thước và niên đại khác nhau. Vào ngày 25/05 âm lịch hàng năm sẽ là ngày giỗ Tổ của chùa Cổ Thạch. Đây là ngày mà để tăng ni, phật tử nơi đây tưởng nhớ công ơn to lớn của vị Thiền Sư Bảo Tạng – người có công lao to lớn trong việc xây dựng chùa ngày ấy. Nguồn: Phật giáo online
Lâm Đồng 3929 lượt xem
Po Sah Inư là một trong ba nhóm đền tháp Chăm thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai, có niên đại sớm từ đầu thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 9. Nhóm tháp tọa lạc trên ngọn đồi khi xưa có tên là đồi Bà Nài thuộc địa phận thôn Ngọc Lâm phường Phú Hài (xưa là Phố Hài), thành phố Phan Thiết. Cạnh tháp B trong nhóm tháp có một ngôi chùa cổ là chùa Bửu Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ 19. Phía dưới chân đồi là biển, phía Tây phía dưới đồi có con Sông Cái bao quanh chảy ra biển. Nhóm đền tháp Po Sah Inư có 3 tháp gồm: Tháp Chính (tháp A), tháp thờ thần Lửa (tháp C) và tháp B thờ bò thần Nandin (cuối thế kỷ 19 vẫn còn, sau đó đã mất). Đây là nhóm đền tháp được xây dựng trên đồi cao gần biển duy nhất trong phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai của nền văn hóa Chămpa, trong khi tất cả các tháp khác đều tọa lạc trên đồi cao hoặc khu vực đồng bằng xa biển. Tháp Chính thờ thần chủ Siva, trong lòng tháp vẫn còn bệ thờ Linga - Yoni là biểu tượng của thần, có niên đại cùng thời với tháp cho đến nay. Từ thế kỷ 19 – 20 nhiều người thường gọi là tháp Phố Hài trùng với địa danh ở đây. Khoảng từ thế kỷ 20 về sau người Chăm gọi là tháp Po Sah Inư là tên của công chúa, chị ruột của vua Podam và đều là con của vua Chăm ParaChanh mà sử Việt gọi là La Khải. Sau khi Po Sah Inư mất, Hoàng tộc Chăm đã xây đền thờ để thờ Bà trong khuôn viên tháp Phố Hài. Như vậy có thời kỳ nhóm đền tháp này tồn tại 2 tên là Phố Hài và Po Sah Inư. Tháp Chính là tháp lớn và cao nhất trong nhóm. Tháp cao 16m; có tất cả 3 tầng, hai tầng trên có kiến trúc gần giống tầng dưới nhưng giảm dần kích thước cũng như các chi tiết kiến trúc và nghệ thuật. Cứ như vậy, nhỏ dần và cao vút lên trên cùng với phần mái tháp. Ở lưng chừng mái tháp có 4 lỗ thông hơi về 4 hướng, nhằm thông hơi và hút khí nóng trong lòng tháp ra ngoài, phần nào tạo sự cân bằng giữa bên trong và bên ngoài, sự hòa hợp giữa thần linh và trời đất. Đây chính là điểm nhấn về tâm linh khi các chức sắc thực hiện lễ nghi và họ tin rằng, các vị thần từ cõi trên đi về bằng con đường này. Tháp Chính cũng là nơi được tập trung những giá trị về kiến trúc vật chất và tinh thần cũng như về tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo. Tháp B: Tháp cao 12m, có 3 tầng như tháp A nhưng nhỏ hơn. Trong lòng tháp thờ bò thần Nandin mà từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 người dân địa phương vẫn thấy, sau đó không thấy nữa. Trong đợt khai quật khảo cổ những năm 1991 - 1995, đã tìm thấy một số mảnh và bàn chân của bò thần Nandin. Trước tháp có một sân lễ lớn, hiện nay dùng dựng rạp trong lễ Katê. Tháp C: Do chức năng nguyên thủy ban đầu là thờ thần Lửa nên kiến trúc chỉ có 1 tầng bao gồm cả chân đế, thân và đỉnh tháp, tháp có chiều cao 5m; chiều rộng mỗi cạnh gần 4m. Dấu vết sụp đổ cho biết hàng trăm năm trước cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, phần đỉnh và mái tháp bị sạt đổ cùng với đế tháp bị mủn mục sâu vào bên trong thân tháp. Sau khi tu bổ tôn tạo xong, chức năng của tháp được sử dụng lại, nhưng chủ yếu là nơi người ta để lễ vật trước khi vào hành lễ ở tháp Chính. Cả 3 ngôi tháp trong nhóm Po Sah Inư đã được tu bổ, tôn tạo lại nhiều lần để có được hình dáng kiến trúc và không gian văn hóa như hiện tại. Từ trước cho đến nửa đầu thế kỷ 20 người Chăm thường thực hiện nhiều lễ nghi ở đây. Từ năm 2005 lễ hội Katê được phục dựng với đầy đủ các quy trình về không gian, thời gian, hình thức, nội dung và giá trị nguyên gốc như xưa. Từ lúc được phục dựng cho đến nay và mãi sau này, hàng năm lễ hội Katê được tổ chức đều đặn để cùng với tháp Po Sah Inư cổ kính làm nên điểm đến thu hút du khách tạo đà cho phát triển du lịch. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ tỉnh Bình Thuận
Lâm Đồng 5487 lượt xem
Tháp Pô Đam thuộc làng Lạc Trị, xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, là một trong những cụm tháp cổ nhất của nền kiến trúc Chăm Pa. Tháp Pô Đam (đọc là Pô Tằm) xây để thờ vua Pô Đam, hay còn gọi là Pô Kathit (Bàn La Trà Duyệt) của người Chăm. Cụm tháp Pô Đam có cấu trúc và bố trí rất lạ, phải nói là lạ nhất so với các cụm tháp khác thuộc kiến trúc Chăm Pa. Cụm tháp Pô Đam đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1996. Thay vì dựng trên đỉnh đồi hay trên đất bằng như nhiều cụm tháp khác, thì tháp Pô Đam lại được bố trí bên sườn đồi. Người Chăm gọi đó là Cơ Gađa, còn người Việt trong vùng gọi là đồi Ông Xiêm. Trong 6 ngôi tháp được tìm thấy, duy nhất tháp Nam (theo cách đặt tên của nhà khảo cố Pháp Parmentier) có cửa chính hướng về đông là phía mặt trời mọc như hầu hết tháp Chăm, còn lại cả 5 ngôi tháp trong cụm tháp Pô Đam đều quay mặt về hướng Nam, chếch hướng Tây một ít. Có nhà nghiên cứu lí giải rằng, cửa tháp hướng như thế để tưởng niệm tổ tiên, còn hướng nam là về thế giới bên kia, cõi âm. Dẫu sao, đây là hai hiện tượng hiếm có trong lịch sử kiến trúc tháp Chăm. Tháp Pô Đam là cụm tháp được tạo dựng vào thế kỉ thứ 8, cùng niên đại với tháp Hòa Lai ở Ninh Thuận. Hơn 12 thế kỷ sóng gió, thêm vị trí kiến trúc khá “bấp bênh”, nên tháp bị đổ nát khá nhiều. Ngoài hai ngôi tháp trục Bắc bị đổ hoàn toàn trơ ra linga, 4 ngôi thuộc trục Nam còn lại không ngôi tháp nào còn nguyên vẹn. Do đó tỉnh Bình Thuận có kế hoạch gia cố, trùng tu và tôn tạo lại. Ngoài các cổ vật quý được tìm thấy mà các báo đã đưa tin, như: Các mảnh ngói cổ có hình thù lạ, bộ bàn nghiền bằng đá (người Chăm gọi là Rathung patau), hai chiếc nhẫn mưta bằng đồng, 1 chiếc chuông nhỏ bằng đồng, 1 rìu sắt, 1 lục lạc đồng in, dưới trục tháp Bắc, người ta còn tìm thấy 1 cái chén (pata – patil) màu vàng (có thể bằng đồng hay vàng) và đặc biệt là bộ xương có thể là hài cốt mà truyền thuyết cho là của mẹ vua là Po Bia Than. Ngôi mộ của bà – như mộ của Bia Than Cih ở tháp Po Rome ở Ninh Thuận – sau đó đã được lấp lại. Phía Nam khu tháp trục Nam sau khi khai quật cũng hiện ra toàn bộ phần chân đế với các di tích quan trọng. Tháp Pô Đam là một trong những cụm tháp cổ và có cấu trúc kỳ lạ nhất trong nền kiến trúc cổ Chăm Pa ở vùng cực Nam vương quốc này. Hơn thế nữa, đó là cụm tháp sống, nghĩa là đang được cộng đồng người Chăm trong khu vực thờ phụng, cúng tế hằng năm. Khai quật mang tính khảo cổ là cần thiết, để qua đó khám phá những dấu vết chứng thực cho lịch sử đồng thời thu thập được các hiện vật làm giàu bảo tàng đất nước. Thế nhưng cần hơn nữa là làm sao tôn tạo được tháp mà không bị hư hại và nhất là không bị lai tạp, giữ phần linh thiêng của tháp như là tháp Chăm đúng nghĩa của nó. Nguồn: Du lịch Bình Thuận
Lâm Đồng 3814 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 12697 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 11637 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 9470 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 9449 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 9063 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 8523 lượt xem
Dinh Quận Hóc Môn tọa lạc tại số 1, đường Lý Nam Đế, thị trấn Hóc Môn, (cạnh trụ sở UBND huyện) là nơi để lại nhiều sự kiện đấu tranh nổi bật suốt chặng đường dài lịch sử từ 1885 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng của Nhân dân 18 Thôn vườn trầu. Sau khi hạ được Đại đồn Chí Hòa, thực dân Pháp xây dựng tại nơi đây một ngôi nhà gỗ cao 3 tầng dùng làm Đồn binh. Khi tên Trần Tử Ca về nhậm chức Đốc Phủ, dùng Đồn làm Dinh huyện Bình Long. Vốn là một tay say quỷ quyệt của thực dân Pháp, Trần Tử Ca bị nhóm do các ông Phan Văn Hớn (Quản Hớn) và Nguyễn Văn Quá (Chánh Lãnh Binh) cầm đầu gần 1.000 nghĩa quân tiến về đốt Dinh Quận, bắt và cắt đầu bêu giữa chợ. Đó là ngày 8/2/1885 Tết Ất Dậu. Sau đó, Dinh Quận Hóc Môn được xây dựng lại với nền móng đá xanh, tường gạch, có hệ thống phòng thủ từ lầu cao đến tận vòng rào. Lối kiến trúc y như Đồn binh nên người địa phương gọi là Đồn Hóc Môn. Trấn nhậm thay Trần Tử Ca là Đốc phủ Ngôn, đến Quận Trà rồi Quận Thọ. Đây là khoảng thời gian dài người dân vùng Hóc Môn hứng chịu bao cảnh tham tàn, bỉ ổi của thực dân Pháp và bọn tay sai đầu sỏ kể trên. Với truyền thống kiên cường bất khuất của Nhân dân Hóc Môn. Ngày 4/6/1930, khoảng 6 giờ sáng trước Dinh Quận, hàng trăm bà con Hóc Môn kéo biểu tình đòi “bãi bỏ thuế thân, giảm các thuế môn bài và thuế chợ, cấp đất cho dân cày nghèo”. Quận Trà cho mời những người cầm đầu vào Dinh thương lượng, nhưng chúng xảo quyệt bắt giữ họ trong đó có ông Lê Văn Uôi (Bí thư xã Tân Thới Nhì), là người cầm đầu cuộc biểu tình. Mọi người không nao núng, quyết liệt đòi hỏi Quận Trà phải thả những người bị cầm giữ. Đoàn biểu tình càng lúc càng đông, khí thế đấu tranh có phần lan rộng, khiến Quận Trà nhượng bộ. Một mặt chúng thả những người bị giữ, mặc khác chúng gọi điện cho quan thầy ở Sài Gòn cứu viện. 2 giờ sau, cuộc đấu tranh bị 2 tên Blachôlê và Nobbot chỉ huy bắn xối xả vào đoàn biểu tình, gây thương vong nhiều người. Nhưng sự kiện lịch sử gây ấn tượng nhất tại Dinh Quận Hóc Môn là cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ngày 23/11/1940. Đồn Hóc Môn rất kiên cố, xây bằng đá xanh như là một pháo đài, cao khoảng 15 thước, có ụ súng và hệ thống phòng thủ lỗ châu mai do một trung đội lính khố xanh trấn giữ. Ngày 22/11/1940, Pháp tăng cường thêm 1 trung đội để đối phó với tình hình. Chiều 22/11/1940, cánh quân của ông Đỗ Văn Cội đột nhập vào thị trấn, giả dạng thường dân, phục kích sau lưng Đồn chờ lệnh cướp Đồn. Một cánh quân khác có nhiệm vụ phá cầu, đốn cây ngăn lộ, đánh chiếm các công sở, nhà việc... Cánh quân từ Phước Vĩnh An, Tân Thông, Tân An Hội, Tân Phú Trung do ông Phạm Văn Sáng và Đặng Công Bỉnh chỉ huy, xuất phát từ ấp Bến Đò, đánh chiếm nhà việc, diệt 1 tên, thu 4 súng, làm chủ tình hình tại đây (Tân Phú trung). Liền đó cánh quân này được lệnh kéo về Hóc Môn. Cánh quân Long Tuy Thượng do ông Bùi Văn Hoạt chỉ huy. Cánh quân thuộc Tổng Long Tuy Trung do ông Đỗ Văn Dậy và Lê Bình Đẳng chỉ huy. Khoảng 24 giờ đêm ngày 22/11/1940, vẫn chưa nghe thấy tiếng pháo lệnh ở Sài Gòn. Sau khi hội ý, các vị chỉ huy những cánh quân thống nhất tấn công Đồn giặc. Lập tức các cánh quân tiến thẳng về Đồn Hóc Môn, nơi trú ngụ của tên Quận trưởng Bùi Ngọc Thọ. 2 nghĩa quân tên Nghé và Kinh xung phong vào cổng trước, hy sinh. Nghĩa quân bốn phía xông vào Đồn như nước vỡ bờ. Trước sức mạnh của nghĩa quân và quần chúng, bọn lính trong Đồn không còn tinh thần kháng cự, bỏ chạy tán loạn. Nghĩa quân chiếm lĩnh hoàn toàn bên trong Đồn nhưng trên lầu, địch vẫn ngoan cố dùng súng bắn tẻ, cùng lúc gọi điện về Sài Gòn, Thủ Dầu Một cấp cứu. Vì nóng lòng bắt cho được tên Quận Thọ nên đồng chí Đỗ Văn Dậy bám ống máng nước để leo lên tầng trên Đồn. Đến lưng chừng bị trúng đạn, đồng chí bị rơi xuống và hy sinh sau đó. Cuộc chiến đấu đang thế giằng co thì viện binh địch đến. Không thể cầm cự, nghĩa quân rút khỏi thị trấn, phân tán về các làng, lực lượng vũ trang rút về ấp Bến Đò (Tân Phú Trung) rồi di chuyển sang ấp Mỹ Hạnh (Đức Hòa). Cuộc tiến công Đồn Hóc Môn (sau gọi là Dinh Quận Hóc Môn) tuy thất bại nhưng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mọi người dân sự khâm phục lòng dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng trong cuộc chiến đấu chống thực dân cướp nước. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 7 giờ sáng ngày 30/4/1975, thị trấn Hóc Môn hoàn toàn được giải phóng, lá cờ Tổ quốc phất phới bay trên Dinh Quận, nơi tên Quận trưởng Nguyễn Như Sang và bọn tay sai đã chạy trốn từ tối đêm trước. Ngày nay Dinh Quận Hóc Môn được chọn làm Bảo tàng huyện, nơi đây tập trung nhiều tư liệu trưng bày, minh họa các giai đoạn lịch sử thăng trầm cũng như khí thế đấu tranh cách mạng của quân và dân trong huyện Hóc Môn qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Một Tượng đài đặt trước di tích Dinh Quận Hóc Môn thể hiện gương hy sinh bất khuất của quân và dân 18 Thôn Vườn trầu, được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8491 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 8347 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Gia Lai 8181 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 8061 lượt xem