Di tích lịch sử

Việt nam

CHÙA LINH ỨNG

Chùa Linh Ứng (Ngọc Khám - Gia Đông - Thuận Thành) nằm bên đường 282 thuộc khu Phố Khám là một di tích lịch sử quan trọng vùng Dâu từ xa xưa với câu ca: “Mồng bảy hội Khám/Mồng tám hội Dâu/Mồng chín đâu đâu cũng về hội Gióng”. Ngôi chùa cổ này trải qua thời gian hàng trăm năm tồn tại nay đã không còn nguyên kiến trúc ban đầu nhưng hiện vẫn giữ được bảo vật là ba pho tượng đá và tấm bia Trùng tu Linh Ứng tự các chung bi kí dựng năm Hoằng Định 13 (1613). Tấm bia đá khổ lớn đặt trên lưng rùa có kích thước 196 x 129 x 26 (cm) viết chữ 2 mặt cho biết nhiều nguồn thông tin quý giá về lịch sử ngôi chùa. Chùa dựng từ thời Trần phù hợp với truyền thuyết “Bên bụt bên bệ” như sau: Tượng ba ông bụt ốc chở từ bên Ấn Độ sang. Thuyền chở tượng đi trước theo sông Thiên Đức hạ bến Bảo Khám (tên cũ làng Ngọc Khám) bên bờ nam. Thuyền chở bệ đi sau lại hạ bến Long Khám (huyện Tiên Du) bên bờ bắc. Dân Long Khám liền cử một đoàn đại biểu sang Bảo Khám đòi tượng. Giữa lúc hai bên còn chưa thương lượng được thì bụt linh hiển bảo tượng đã yên vị ở đâu thì dựng chùa ở đó. Thế là dân Bảo Khám dựng thêm ngôi chùa ở nơi có ba pho tượng đá lấy tên là Linh Ứng tự. Đến đầu thời Lê Trung Hưng có Thái Lộc hầu Lê Đình Chất, đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Kim tử vinh lộc đại phu, quê Bái Thượng (Thanh Hoá) đã bỏ tiền nhà mua gỗ trùng tu chùa gồm xây gác chuông, dựng bia đá, sửa tam bảo, hành lang, thiêu hương, tiền đường, tam quan, tô tượng phật và mua ruộng 1 sào 3 thước cúng vào chùa. Khởi công ngày 11-5 Nhâm Tý (1612), hoàn thành ngày 19-11 cùng năm. Tham gia công đức cùng Thái Lộc hầu Lê Đình Chất còn có nhiều quan lại cao cấp như Thanh quận công Trịnh Tráng (lúc này chưa lên ngôi chúa), Hoa Dương hầu Vương Châu (quê Bình Ngô láng giềng Bảo Khám, sau này thăng quận công, lúc mất được phong vương cho dân thờ). Ba pho tượng đá có kích thước gần như nhau, cao 145 cm. Tuy có truyền thuyết bên bụt bên bệ nhưng thực tế tượng vẫn có bệ đá hình hoa sen, bệ giữa cao 112 cm, hai bệ hai bên cao 105 cm. Tượng ở tư thế tọa thiền, vẻ phương phi khỏe mạnh. Hai pho hai bên mặt hơi cúi, pho giữa mặt hơi ngửa lên. Cả ba pho tượng đều có tóc xoăn nên dân gian quen gọi là bụt ốc. Về trang phục thì cả ba pho đều mặc áo la bào mở rộng phần ngực trang trí dây anh lạc có hoa, lá, tua khiến khi ngắm tượng thấy sinh động. Bệ tượng trang trí hình hoa sen cùng hoạ tiết rồng, mây, dây hoa cúc... mang đậm phong cách thời Trần để minh chứng chùa có từ thời Trần, tức là từ khi có tượng nên có chùa. Qua một số hiện vật khác cho thấy chùa Linh Ứng còn được tu sửa nhiều lần. Đến năm 1952 chùa bị phá huỷ hoàn toàn, tượng đá không có mái che, thậm chí có pho tượng còn bị bay cả đầu xuống ngòi nước của trường cấp 3 Thuận Thành gần đó. Tuy nhiên, với giá trị độc đáo của ba pho tượng đá, năm 1981 Nhà nước đã xếp hạng là Di tích lịch sử nghệ thuật. Sau đó nhân dân địa phương đã xây dựng lại chùa hoàn thiện dần thành danh lam thắng cảnh hiện nay. Nguồn: Báo Bắc Ninh Online

Bắc Ninh 2707 lượt xem

Xếp hạng : Di tích Quốc gia Mở cửa

CHÙA DẠM

(BNP) – Chùa Dạm là ngôi chùa cổ nằm trên núi Dạm (phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Chùa thờ Phật và Nguyên Phi Ỷ Lan (dân gian gọi bà là Tấm nên cũng gọi là chùa Bà Tấm). Chùa còn có nhiều tên gọi: Chùa Dạm, Lãm Sơn, “Cảnh Long Đồng Khánh”, “Thần Quang tự”. Sử chép và truyền kể, chùa do đích thân Nguyên Phi Ỷ Lan chọn địa điểm và hưng công xây dựng từ mùa đông năm 1086 đến năm 1094 thì hoàn thành và được coi là “Trung tâm Phật giáo lớn nhất của nước Đại Việt”. Đây là một công trình quan trọng nên vua Lý Nhân Tông rất quan tâm chăm lo và khi chùa hoàn thành đã ban tên “Cảnh Long Đồng Khánh”. Trải qua trường kỳ lịch sử, chùa được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa bị dỡ bỏ. Sau khi hòa bình lập lại, năm 1986, nhân dân địa phương xây dựng 3 gian chùa nhỏ trên nền đất cũ để thờ Phật.Kế thừa kết quả khảo cổ học, từ năm 2015 đến nay, cũng như việc tham vấn ý kiến của giới chuyên gia, các nhà khoa học, tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện việc quy hoạch tổng thể và xây dựng “khu di tích văn hóa và sinh thái núi Dạm”. Chùa Dạm được trùng tu tôn tạo, với quy mô to lớn, khang trang tố hảo, cùng với hệ thống tượng thờ và đồ thờ tự tại chùa giá trị lớn về nghệ thuật, thẩm mỹ đại diện cho đặc trưng mỹ thuật mỗi thời kỳ. Hiện tòa Tam Bảo có kết cấu mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Công (I); bao gồm các công trình như: Tiền đường, Thiêu hương và Thượng Điện. Toàn bộ công trình làm bằng gỗ lim to chắc khỏe đồ sộ. Tiền đường 7 gian 2 chái 4 mái đao cong; có kết cấu vì nóc kiểu “chồng rường giá chiêng”, vì nách “chồng rường bán giá chiêng”. Nối giữa tiền đường và thượng điện là 3 gian thiêu hương. Thượng điện 3 gian 2 chái 4 mái đao cong, có kết cấu vì tương tự tòa Tiền đường, có hệ thống hiên chạy bao quanh công trình chính. Các hạng mục chùa mới có quy mô kiến trúc đồ sộ được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ lim, đắp vẽ, trang trí tinh xảo bằng kỹ thuật truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn mở cả 7 gian, 2 hồi xây tường gạch trổ cửa kiểu chữ “Thọ”. Ngoài ra, chùa còn có Nhà Tổ, nhà Mẫu xây dựng đăng đối hai bên, mỗi tòa 3 gian 2 chái 4 mái đao cong và bộ khung gỗ chịu lực và có kết cấu tương tự nhau. Hiện chùa còn bảo lưu tại cột đá chùa Dạm có niên đại từ thế kỷ XI, đã được công nhận là bảo vật Quốc gia có giá trị về lịch sử, mỹ thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu khoa học về nghiên cứu, tìm hiểu. Trong chùa còn có các tượng thờ và các đồ thờ tự đều mới tạo tác thế kỷ XXI như: 03 tượng Tam Thế, bộ tượng Dida Tam Tôn, bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, 01 tượng Ngọc Hoàng, 01 tượng Di Lặc, 01 tượng Quan âm, tượng Hộ Pháp, tượng Đức Ông, tượng Thánh Hiền, tượng Bát Bộ Kim Cương, tượng Thập Điện Diêm Vương, tượng bà Nguyên Phi Ỷ Lan, tượng Vua Lý Nhân Tông, Hoành phi, câu đối và các đồ thờ tự….. Chùa tòa lạc trên lưng chừng phía Đông - Nam núi Dạm, nhìn xuống cánh đồng trước mặt là núi Con Rùa, xa xa là sông Tào Khê và sông Thiên Đức. Trước cửa chùa có một con mương chạy từ chân núi ra bờ sông gọi là ngòi Con Tên. Giống như hầu hết các ngôi chùa trên làng quê Việt Nam, chùa Dạm là công trình tôn giáo khởi dựng lên từ lâu đời để thờ Phật, thờ Mẫu, thờ các vị sư tổ. Ngoài ra, chùa thờ bà Nguyên Phi Ỷ Lan (người có công xây dựng ngôi chùa vào thời Lý), chùa còn là trung tâm sinh hoạt tôn giáo đạo Phật của nhân dân. Hội chùa diễn ra hàng năm vào ngày 8 tháng 9 (âm lịch). Nhà chùa cùng toàn thể nhân dân sắm sửa lễ vật cúng phật cầu bình an, sức khỏe và may mắn. Ngoài ra vào các ngày như: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, tuần rằm, mùng một, dịp lễ hội truyền thống, Tết nguyên đán, các phật tử, các vãi và quý khách thập phương về dự lễ hội chùa. Chùa Dạm được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích lịch sử văn hoá - Quyết định số 29 -VH/QĐ ngày 13/01/1964. Nguồn: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TÌNH BẮC NINH

Bắc Ninh 2913 lượt xem

Xếp hạng : Di tích Quốc gia Mở cửa

CHÙA TIÊU

Chùa Tiêu có tên chữ là (Thiên Tâm tự) hay còn gọi là Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang - thị xã Từ Sơn - tỉnh Bắc Ninh. Nơi lưu giữ những di sản văn hóa quý giá của vương triều Lý và thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan, tìm hiểu lịch sử. Theo lịch sử ghi lại, chùa Tiêu là nơi Lý Công Uẩn được đầu thai và được Quốc sư Lý Vạn Hạnh nuôi dưỡng, giáo dục trưởng thành sau trở thành bậc minh vương có công khởi lập vương triều Lý và nền văn minh Đại Việt. Thái Tổ họ Nguyễn (Lý), người châu Cổ Pháp Lộ Bắc Giang; mẹ là Phạm Thị, ngày 12 tháng 2 năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình (974) sinh ra vua. Vua khi bé đã thông minh, khí độ, rộng rãi, học ở chùa Lục Tổ, sư Vạn Hạnh trông thấy lấy làm lạ nói rằng: Đây là người phi thường sau này lớn lên tất có thể cứu nước, yên dân làm bậc minh chủ thiên hạ. Căn cứ vào sử sách và truyền thuyết dân gian, có thể coi chùa Tiêu có từ thời Tiền Lê. Đến thời Lý đã là một trong những trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì của Thiền sư Lý Vạn Hạnh, người có công nuôi dạy Lý Công Uẩn lớn khôn trưởng thành. Chùa Tiêu có nhiều công trình như: Viện Cảm Tuyền, Lầu Tiên Lĩnh, Tiền đường, Thượng điện, Hậu đường… Bên cạnh về phía Đông Nam còn có chùa Trường Liêu. Thời Lê Trung Hưng, chùa Tiêu được trùng tu mở rộng với quy mô lớn theo kiểu chùa trăm gian, nên còn có tên là chùa “trăm gian”. Đến thời Nguyễn, triều vua Bảo Đại, chùa tiếp tục được trùng tu và ghi lại trên câu đầu của toà Tam Bảo. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, quân giặc đã ném bom phá hoại gần như hoàn toàn chùa Tiêu, chỉ còn sót lại một số tượng Phật và đồ thờ tự. Chùa Trường Liêu cũng bị phá hủy, chỉ còn lại ba pho tượng Tam Thế, một pho Đức Chúa và một chuông đồng có tên chùa “Trường Liêu tự chung” đúc năm Thiệu trị 3 (1843). Kiến trúc hiện tại của chùa Tiêu là kiến trúc của những lần trùng tu tôn tạo. Chùa gồm các tòa: Tam bảo, nhà Tổ, nhà khách, gác chuông và các công trình phụ trợ. Tòa Tam bảo được dựng bằng bộ khung gỗ, chạm khắc trang trí hoa lá cách điệu. Nhà Tổ có mái theo kiểu chồng diêm. Tại nhà Tổ có pho tượng cổ Thiền sư Vạn Hạnh và ngai bài vị ghi rõ “Lý triều nhập nội Tể tướng Lý Vạn Hạnh Thiền sư thần vị”. Ngoài những công trình chính, chùa Tiêu còn có một số công trình phụ trợ như: nhà khách, nhà sư… Đặc biệt, chùa Tiêu còn bảo lưu được 14 tháp cổ của các vị sư nổi tiếng từng trụ trì ở đây. Ngoài ra, trên đỉnh núi Tiêu còn có pho tượng Thiền sư Lý Vạn Hạnh cao khoảng 5m. Chùa Tiêu hiện còn bảo lưu được một số cổ vật quý giá thời Lê, Nguyễn, phản ánh về thời Lý như sau: 15 pho tượng Phật bằng gỗ chạm khắc đẹp, 01 pho tượng Thiền sư Lý Vạn Hạnh, 01 bia đá có tên “Lý gia linh thạch” niên đại “Cảnh Thịnh nguyên niên” (1793) ghi chép về lai lịch và công trạng của Lý Công Uẩn, 01 chuông đồng của chùa Trường Liêu, niên đại Thiệu trị ” (1843), 01 bia đá có tên “Cúng điền bi kỷ” niên đại Bảo Đại 3 (1923) và nhiều câu đối, thơ ca, sấm ký… Du khách về với khu di tích chùa Tiêu (Thiên Tâm tự) là tìm về những trang sử sống động tuổi ấu thơ của Lý Công Uẩn, bậc minh vương có công khai lập vương triều Lý và quốc gia Đại Việt. Về chùa Tiêu là về một vùng đất cổ với bao điều bí ẩn gắn với lịch sử, văn hóa của vùng đất Bắc Ninh - Kinh Bắc và của dân tộc Việt Nam. NGUỒN CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH BẮC NINH

Bắc Ninh 2803 lượt xem

Xếp hạng : Di tích Quốc gia Mở cửa

ĐÌNH HẠ, ĐÌNH THƯỢNG

Đình Hạ, đình Thượng thuộc xã Tự Nhiên, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Theo truyền thuyết, thần phả và các đạo sắc phong còn lưu lại thì hai đình thờ Chử Đồng Tử (một trong tứ bất tử của người Việt) cùng hai phu nhân là công chúa Tiên Dung và nàng Hồng Vân. Sau khi công chúa Tiên Dung lấy Chử Đồng Tử làm chồng, hai người đã học được phép tiên trị bệnh cứu người và cùng dân làng cải tạo, mở mang đất đai, trồng trọt, chăn nuôi lập nên xóm làng trù phú. Vua Hùng nghe tin, cả giận sai quân lính bắt về triều đình để trị tội. Biết tin đó, Chử Đồng Tử và Tiên Dung hóa phép bay về trời, mang theo nàng Hồng Vân của đất Tự Nhiên. Nhân dân biết ơn lập đền thờ. Đình Thượng và đình Hạ là hai công trình kiến trúc nằm song song, có niên đại tương đồng nhau, được khởi dựng vào thời Hậu Lê; tôn tạo, tu sửa làm Hậu cung vào cuối triều Nguyễn. Có điểm khác nhau là Đại bái đình Thượng không có tích “Rồng mẫu tử” mà có tích “Độc long”. Đình Thượng có 69 đạo sắc phong nhiều hơn đình Hạ 03 sắc phong. Lễ hội của làng Tự Nhiên diễn ra vào ngày mồng 1 tháng 4 (âm lịch). Vào ngày này, dân làng tổ chức lễ rước Long Ngư bao gồm 07 cỗ kiệu của ba đình: Đình Thượng, đình Hạ, đình Thủy tộc để tái hiện lại thiên tình sử mấy ngàn năm về trước của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Hai ngôi đình đều được xếp hạng di tích cấp Quốc gia: Đình Hạ xếp hạng năm 1988, đình Thượng xếp hạng năm 2002. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 3787 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Đình, Đền, Chùa Đào Xá.

Đến với làng Đào Xá, xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, du khách sẽ được chiêm bái những nét cổ kính, độc đáo của cụm di tích đình, chùa với những nét tinh xảo, độc đáo trong kiến trúc, được hòa mình vào không gian xanh, sạch, đẹp của làng quê yên bình với con người tài hoa, thân thiện, hiếu khách… Xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, nổi tiếng bởi có làng thêu Đào Xá với những sản phẩm có chất lượng nghệ thuật tinh xảo. Nơi đây còn là điểm đến của nhiều du khách xa gần bởi một tổng thể kiến trúc liên hoàn đặc sắc là đình Đông, đình Tây, chùa Đào Xá. Cả 3 di tích này đều được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia vào năm 2000. Đào Xá sở hữu nét đặc biệt mà ít có địa phương nào có được đó là trong một làng lại có tới 2 ngôi đình liền kề nhau. Hai ngôi đình được phân biệt theo cách gọi mộc mạc, dân dã: Đình Đông và đình Tây. Đình Tây Đào Xá vốn là đền thờ Chử Đồng Tử (một trong Tứ bất tử của người Việt) và Tiên Dung công chúa. Tương truyền, Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong một lần đi ngang qua làng Đào Xá thấy phong cảnh hữu tình bèn dừng lại nghỉ chân. Để tưởng nhớ Đức thánh và Công chúa, người dân đã lập đền thờ. Đền được xây dựng thời Chính Hòa nguyên niên (1680-1705), đời vua Lê Hy Tông, có kiến trúc theo kiểu chữ “nhị”. Sau này, đền trở thành đình làng. Trước đại bái đình Tây có đôi sấu đá – linh vật phổ biến thời Lý – Trần, còn nguyên vẹn. Đại bái có 5 bậc lên, mái lợp ngói vảy cá, trên đắp nổi hình lưỡng long tranh châu, hai bên hồi có mái. Khoảng cách nối giữa đại bái và thượng điện khoảng 1m, hai bên cổng đắp hình tờ thánh chiếu đang mở ra. Hai bên vách đại bái có hai tấm bia đá chìm ghi lại sự kiện trùng tu đình. Đại bái có 2 bức đại tự chữ Hán “Nhạc độc chung linh” và “Thượng đẳng linh từ” ca ngợi công đức của đức thánh Chử Đồng Tử. Hệ thống cột gỗ được đặt trên các bệ đá, các đầu bảy được điêu khắc hình rồng tinh xảo cùng các linh vật được điêu khắc rời đặt trên hệ thống xà. Đình Đông Đào Xá trước là đền Lá Cọ, được xây dựng vào đầu thế kỷ XX theo kiểu kiến trúc liên hoàn hình chữ “tam”. Ba nếp nhà cao dần từ ngoài vào trong, nhà tiền tế có 4 hàng cột gỗ đặt trên trụ đá kiểu thắt cổ bồng, bên trái là một con chó đá nằm quay đầu ra ngoài. Ngôi đền thờ ông tổ nghề thêu Lê Công Hành (1606-1661), quê gốc ở làng Quất Động (nay là xã Quất Động, huyện Thường Tín). Nhờ giá trị tâm linh to lớn, đền được chuyển thành đình và được gọi là đình Đông để phân biệt với đình Tây thờ Chử Đồng Tử – Tiên Dung. Đình Đông có quy mô nhỏ hơn đình Tây. Đình Đông Đào Xá là nơi tổ chức lễ giỗ tổ nghề thêu Lê Công Hành vào ngày 12 tháng Sáu (âm lịch) hằng năm. Nằm giữa hai ngôi đình là chùa Đào Xá (Vân La tự), có quy mô nhỏ, với 36 pho tượng được bài trí theo từng lớp từ bái đường đến thượng điện. Trước sân chùa có cây hương chạm chữ Hán: “Vĩnh Khánh nguyên niên tuế tại Ất Dậu ngũ nguyệt cốc nhật” (dựng năm 1729, thời vua Lê Duy Phường). Đào Xá là một trong số ít làng còn giữ được kiến trúc tâm linh liên hoàn đình – đền – chùa và hệ thống sân, cổng, ao cùng cây cổ thụ. Tam quan là cổng chung cho cả quần thể được điêu khắc chi tiết. Trải qua thời gian, tam quan mang vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm. Mỗi cổng đều có 2 tầng, gác chuông, lầu khánh. Cổng chính đề 4 chữ Hán “Nhật chiếu nguyệt lâm”, hướng về phía tây nam, cao 15m, trước mặt là sân rộng tạo vẻ uy nghi, bề thế khi nhìn từ phía xa. Lễ hội làng Đào Xá tổ chức vào ngày 12 tháng Hai (âm lịch), cứ 5 năm lại tổ chức lễ tắm Thánh Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa bằng nước lấy ở đầm Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên). Với những giá trị lịch sử to lớn, năm 2000, di tích đình Đông, đình Tây và chùa Đào Xá được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Năm 2009, làng Đào Xá được UBND thành phố Hà Nội công nhận là Làng nghề truyền thống. Đào Xá được nhiều du khách xa gần chọn làm điểm đến trong hành trình du lịch văn hóa tâm linh. Đến với Đào Xá, du khách sẽ được chiêm bái những nét cổ kính, độc đáo của cụm di tích đình chùa với những nét tinh xảo, độc đáo trong kiến trúc, được hòa mình vào không gian xanh, sạch, đẹp của làng quê còn giữ được những nét đặc trưng của nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Không những thế, nếu có thời gian, du khách sẽ có thêm những trải nghiệm tuyệt vời tại làng nghề thêu Đào Xá để hiểu thêm về vùng đất, con người nơi này. Nguồn Sở văn hóa và thể thao thành phố Hà Nội.

Hà Nội 4249 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

ĐÊN THỜ KINH DƯƠNG VƯƠNG

Hàng năm, cứ mỗi độ tết đến xuân về, hàng ngàn vạn “con Hồng cháu Lạc” từ khắp mọi miền lại tìm về khu di tích đền thờ và lăng mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, để tri ân và thờ phụng những bậc thủy tổ dân tộc có công khai mở nước. Á Lữ là một làng cổ nằm sát bờ Nam sông Đuống, truyền rằng là đất hội tụ của “Tứ linh” với 99 cái ao, 99 cái gồ, được ví như Long, Ly, Quy, Phượng chầu về, nơi duy nhất có lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước. Lăng Kinh Dương Vương nằm ở trên bãi bồi cao rộng thoáng sát bờ Nam sông Đuống và sầm uất bởi rừng cây cổ thụ bao quanh. Xưa kia, hai ngôi đền cổ ở phía Tây làng Á Lữ thờ phụng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ (Đền Thượng thờ Kinh Dương Vương, đền Hạ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ), có quy mô kiến trúc to lớn, chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý” lộng lẫy. Về phía Đông lăng Kinh Dương Vương xưa còn có một ngôi chùa có tên chữ là “Đông Linh Bát Nhã tự” thờ các đức “Thánh mẫu thủy tổ” là Vụ Tiên, Thần Long và Âu Cơ. Thủy tổ Kinh Dương Vương còn được thờ làm Thành Hoàng làng thôn Á Lữ. Ngôi đình cổ ở phía Đông làng được khởi dựng với quy mô to lớn gồm 2 tòa: Tiền tế 7 gian và Đại đình có 5 gian tiền đình và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ chạm khắc “tứ kinh tứ quý” lộng lẫy. Hệ thống thần phả sắc phong của đình và đền đã cho biết rõ người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, có công khai sơn sáng thủy. Năm 1949-1952, giặc Pháp kéo đến thôn Á Lữ, đóng đồn bốt ở đây, phá hoại toàn bộ đền đình chùa, dân làng đã kịp cất giữ một số đồ thờ tự cổ quý như: ngai, kiệu, sắc phong… của đền và đình. Đến năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ đã tôn tạo khu Lăng mộ Kinh Dương Vương. Năm 2000, một ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ được phục dựng theo kiểu thức truyền thống. Điều vô cùng quý giá của quần thể di tích là còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội: Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam)… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại như sau: 1 đạo Gia Long 9 (1810), 1 đạo Minh Mệnh 2 (1821), 2 đạo Thiệu Trị 2 (1842), 2 đạo Thiệu Trị 6 (1846), 2 đạo Tự Đức 3 (1850), 1 đạo Tự Đức 33 (1880), 2 đạo Đồng Khánh 2 (1887), 1 đạo Duy Tân 3 (1909) và 2 đạo Khải Định 9 (1924). Kho tàng di sản văn hóa quý giá của quần thể di tích còn được thể hiện ở tín ngưỡng và lễ hội truyền thống. Tục truyền, xưa hàng năm cứ đến ngày 18 tháng giêng đền, đình làng Á Lữ lại được mở hội. Để lo việc đình đám, ngay từ trong năm làng phân công việc cho quan đám và các giáp. Giáp đăng cai lễ hội được nhận ruộng công để nuôi lợn và làm bánh chưng, bánh dày tế thần. Vào hội, ngay từ ngày 12, đền và đình được mở cửa để bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt. Đến ngày 16, làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình đền để tế lễ quanh năm. Ngày 17, làng tổ chức rước kiệu từ đình xuống đền Thượng và đền Hạ để xin rước các bậc thủy tổ dân tộc về đình để tế lễ và mở hội. Từ ngày 18 đến 24, mỗi ngày một tuần tế. Lễ vật có lợn cả con, bánh trưng, bánh dày. Đến ngày 25, tế giã đám tại đền Thượng và đền Hạ bằng cá gỏi. Ngoài đình đám 18 tháng Giêng, còn có ngày sự lệ riêng của đền Thượng và đền Hạ. Tục truyền, cứ đến ngày 15 tháng 8 (âm lịch), dân làng làm 3 mâm trám đen và 3 mâm gỏi cá để tế các bậc thủy tổ Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân và Âu Cơ tại đền Thượng và đền Hạ. Các mâm tế: “trám đen” tượng trưng cho 50 người con theo mẹ lên vùng rừng núi sinh cơ lập nghiệp. Còn các mâm “cá gỏi” tượng trưng cho 50 người con theo cha xuống biển khai mở miền biển. Trong những ngày lễ hội, đã thu hút hàng ngàn vạn “Con lạc cháu Hồng” từ khắp mọi miền đất nước về với khu di tích lăng và đền thờ, nhằm tri ân và thờ phụng tôn vinh Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ là những bậc thủy tổ có công mở nước. Với những giá trị và ý nghĩa lớn lao của khu di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, vừa qua UBND tỉnh Bắc Ninh đã công bố Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích với quy mô rất lớn gồm nhiều hạng mục công trình. Khu di tích đã và đang trở thành trọng điểm du lịch văn hóa tâm linh của nước ta. Nguồn: DI SẢN VĂN HÓA THUẬN THÀNH

Bắc Ninh 3021 lượt xem

Xếp hạng : Đang cập nhật Mở cửa

CHÙA BÚT THÁP

Chùa Bút Tháp, tên chữ là Ninh Phúc tự - Được biết đến là một trong những danh lam cổ tự đẹp nhất ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, vẫn bảo tồn được tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay, cách thủ đô Hà Nội khoảng gần 30km và chùa Dâu 3km. Ngôi chùa nằm kề bên bờ nam Sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Phát tích ngôi chùa có từ TK- XIII, được khởi dựng vào Thời vua Trần Thánh Tông, Do sư Huyền Quang sau khi đỗ trạng nguyên rồi từ quan đã về tu ở đây (Sách Chùa Bút Tháp - Bùi Văn Tiến, cũng nói đến vị trụ trì chùa thời Trần là Thiền sư Huyền Quang, Trúc Lâm đệ tam tổ). Trải qua thời gian, chùa đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Nhưng lần trùng tu lớn nhất là vào đầu TK –XVII, thời Lê – Trịnh. Khi ấy trụ trì chùa là vị sư Chuyết Chuyết (Từ 1633-1644), cùng đệ tử của ông là thiền sư Minh Hạnh (Từ 1633-1659) đã trùng tu lại toàn bộ ngôi chùa với quy mô lớn, kiến trúc theo kiểu “ Nội công, ngoại quốc” và có sự đóng góp công đức to lớn về tiền của, ruộng lộc của hoàng thái hậu - Diệu Viên, Trịnh Thị Ngọc Trúc (Con gái của Thanh vương Trịnh Tráng) cùng Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên pháp danh Diệu Tuệ và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ (Những vị này về sau cũng đã được lập phủ thờ, tạc tượng đặt trong khám, thờ tại chùa Bút Tháp cho đến ngày nay).Đợt trùng tu này kéo dài từ 1644 đến 1647 chùa mới hoàn thành và có tên chữ là “Ninh Phúc thiền tự”. Sang đầu thế kỷ 18, chùa Bút Tháp lại được tu sửa với quy mô lớn hơn trước. Bia “Ninh Phúc thiền tự bi ký” và “Khánh Lưu bi ký” dựng năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) chép rằng “chùa được các quan viên cho tu sửa thêm, chẳng tiếc ngàn vàng sắm mua toàn gỗ tốt, lại được dân làng góp sức và mời thợ cất dựng sửa sang, Với Điện thờ nguy nga, chùa chiền rộng rải, trang điểm một bầu thế giới Lưu ly”. So với trước thì chùa có thêm dãy nhà riêng ở phía ­­sau Phật đường, quy mô đã to lớn hơn nhiều. Đến năm 1876, khi vua Tự Đức kinh lý qua đây, thấy có ngọn tháp hình dáng khổng lồ nên gọi tên là chùa Bút Tháp từ đó. Quần thể kiến trúc chùa Bút Tháp, nổi bật giữa đồng lúa mênh mông. Chùa quay theo hướng Nam là hướng của trí tuệ, bát nhã trong triết lý nhà Phật. Ngoài cùng là tam quan, tiếp đó là gác chuông 2 tầng 8 mái. Khu trung tâm bao gồm 7 nếp nhà đều nằm ngang, chạy song hành được bố trí trên một trục dọc - Đường thần đạo. Bên trong nội tự, nằm giữa hai dãy hành lang (mỗi dãy gồm 26 gian) là 7 tòa nhà nối tiếp nhau từ ngoài vào, gồm: Tiền Đường, Thiêu Hương, Thượng điện, vắt nối giữa Thượng Điện và Tích Thiện Am là chiếc cầu đá bắc ngang hồ sen ( Cầu dài 4m gồm 3 nhịp uốn cong vồng. Mặt cầu lát đá xanh, hai bên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông, hoa lá công phu, tinh xảo). Tòa Tích Thiện Am, như tên gọi có nghĩa là chứa điều lành. Trong Tích Thiện Am, có tòa cửu phẩm liên hoa - tháp bằng gỗ, 9 tầng, 8 mặt, 9 đài sen tượng trưng cho 9 cấp tu hành chính quả của Phật giáo. Rồi tiếp đến nhà Trung, phủ thờ và cuối cùng là hậu đường, tổng chiều dài hơn 100m. Phía sau nhà Hậu Đường là hàng tháp đá, trong đó có tháp đá Tôn Đức 5 tầng, cao 11m là nơi đặt xá lị thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai của chùa. Bên trái chùa có nhà thờ vị tổ thứ nhất Chuyết Chuyết và ngôi tháp đá Báo Nghiêm tám mặt, 5 tầng cao 13m là nơi táng xá lị của thiền sư Chuyết Chuyết. Hai bên phía đầu ngoài, dọc theo toà Tiền đường là hai nhà bia. Mỗi một công trình kiến trúc của ngôi chùa này là một tác phẩm nghệ thuật khéo léo với các họa tiết trang trí được làm bằng các chất liệu phong phú và đa dạng như đá, gỗ, gạch. Nó thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và môi trường thiên nhiên. Nhìn tổng thể ngôi chùa được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm, nhưng lại rất tự nhiên thoáng mở ở khu vực xung quanh, nên chùa Bút Tháp có nét riêng có và vô cùng độc đáo. Đặc biệt, trong hệ thống các pho tượng cổ của chùa Bút Tháp phải kể đến một báu vật cổ, được xem là độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Đó chính là tượng Phật “ Thiên thủ thiên nhãn - nghìn mắt, nghìn tay”. Tượng cao 3,7m, ngang 2,1m, có 11 đầu, 46 tay lớn và 954 tay nhỏ, dài ngắn khác nhau, nở khối vươn cao như ánh hào quang. Đây được coi là một kiệt tác về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng đương thời. Tượng được đặt trên tòa sen rồng đội, với dáng hành đạo, thư thái. Điều đặc biệt, độc đáo của ngôi chùa mà không đâu trên đất nước ta có được, đó chính là ngọn bảo tháp bằng đá cao lớn, uy nghiêm, vươn lên trời xanh, có tên là tháp Báo Nghiêm, nổi bật hẳn giữa vùng đồng bằng rộng lớn. Tháp Báo Nghiêm giống như cây bút khổng lồ, vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05m, 5 tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh, 5 góc của 5 tầng có 5 quả chuông nhỏ, xung quanh tháp được trang trí hoa văn sinh động và độc đáo. Lòng tháp có một khoanh tròn đường kính 2,29m. Tầng dưới cùng của tháp này có 13 bức chạm đá, chủ yếu là hình các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của người thợ Việt Nam xưa. Lùi về phía sau có tháp Tôn Đức cao 11m, nơi đặt xá lị thiền sư Minh Hạnh, vị tổ thứ hai của chùa. Tháp được xây dựng từ giữa thế kỷ 17, 4 mặt tháp đều bít kín bằng đá, mới đây trong lòng tháp người ta vừa tìm thấy được 2 cuốn sách đồng cổ, viết/ khắc kinh Phật. Mấy thế kỷ đã trôi qua, song những gì còn lại ở chùa Bút Tháp cho thấy đây là một trong những trung tâm Phật giáo có ảnh hưởng lớn tại vùng Kinh Bắc xưa, là một trong số ít những ngôi chùa còn giữ được khá nguyên vẹn khối kiến trúc, đồ thờ, tượng thờ cổ của nước ta. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, chùa Bút Tháp luôn được bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo ngày càng đẹp hơn trở thành một trong những điểm thăm quan – Du lịch tâm linh nổi tiếng ở vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc. Hàng năm, mọi người dân trong vùng và du khách gần xa luôn nhớ và trở về dự lễ hội chùa, được tổ chức vào ngày 24 tháng 3 ( Âm Lịch). Hội chùa Bút Tháp được diễn ra trong niềm vui náo nức và lòng sùng kính của khách thập phương mỗi khi đến với chùa. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Chùa Bút Tháp đã được Bộ VH-TT xếp hạng và công nhận là di tích LSVH cấp quốc gia từ ngày 28/4/1962. Đến năm 2013, được thủ tướng Chính Phủ cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và Pho tượng Phật “ Thiên thủ thiên nhãn – Nghìn mắt nghìn tay” được cấp bằng công nhận là bảo vật quốc gia./. Nguồn: DI SẢN VĂN HÓA THUẬN THÀNH

Bắc Ninh 3193 lượt xem

Xếp hạng : Di tích Quốc gia Đặc biệt Mở cửa

Đình Hà Hồi

Hà Hồi là xã ở phía đông bắc huyện Thường Tín. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Hà Hồi thuộc tổng Hà Hồi, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Nhắc đến xã Hà Hồi phải nói đến ngôi đình cổ nằm trong trung tâm xã - đình Hà Hồi, là một trong 6 ngôi đình cổ của vùng đồng bằng Bắc bộ còn tồn tại đến ngày nay. Đình được xây dựng cách đây khoảng hơn 400 năm vào thời nhà Lê, thế kỷ XVI. Theo các nhà khảo cổ học, thì ngôi đình được xây dựng vào năm 1578, đời Mạc Mậu Hợp, thờ Đức thánh Cao Sơn là Thành hoàng của làng. Do có nhiều công lao với dân với nước, ngài Cao Sơn Đại vương đã được các triều đại phong tặng 24 sắc phong còn lưu giữ đến ngày nay, sắc phong cao nhất là Thượng đẳng tối linh thần. Theo dòng lịch sử, ngôi đình đã trải qua nhiều triều đại, sự thăng trầm của thời gian và chiến tranh, đình được tu bổ nhiều lần, song vẫn giữ nguyên được những giá trị nghệ thuật, kiến trúc tinh hoa của các nghệ nhân xưa. Đình Hà Hồi được xây dựng bố cục theo hình chữ Tam, hướng Nam chếch Đông, trước mặt là một thủy đình khá lớn. Tòa đại đình gồm 3 hạng mục lớn, nằm song song liền kề, gồm: Đại bái, Trung cung và Hậu cung. Mái đình được thiết kế theo kiểu hình thuyền lợp ngói mũi, các vì kèo được thiết kế theo hệ thống chồng giường, tạo nên sự vững chắc bề thế cho ngôi đình, phần nền được lát đá nguyên khối, tạo không gian thoáng mát. Đình còn lưu giữ bảo tồn được các mảng kiến trúc chạm trổ, điêu khắc nghệ thuật, thể hiện ở các bức cốn như: Tứ linh (Long, lân, quy, phượng), chuột ngó đầu gậm lá sen, các đầu dư, đầu bẩy chạm khắc rồng hết sức mềm mại và tinh vi. Bức hoành phi ở Trung cung phiên âm hán việt là: “Hộ quốc tí dân” (dịch nghĩa: Phù giúp đất nước, che chở muôn dân). Bên cạnh là đôi câu đối. Phiên âm Hán việt như sau: “Nãi văn nãi vũ, thần công hà hải hộ khang dân, Tối tú tối linh, thánh đức thường lưu phù quốc thái.” Dịch nghĩa: “Là văn là võ, công lao của thần như biển hồ ngầm giúp dân chúng yên ổn, Xuất chúng uy linh, đức của thánh lưu truyền phù trì vận nước thái bình”. Ngoài gian Đại bái có bức hoành phi chính giữa đề 04 chữ là “Sơn anh hà tú” (Tạm dịch nghĩa là: Núi sông anh linh tối tú). Ngoài ra đình còn lưu giữ được nhiều câu đối, hoành phi, cửa võng…và các hạng mục kiến trúc theo phong cách truyền thống bắc bộ, đặc biệt là hai pho tượng phỗng đá Xiêm Thành ngay trước cửa Hậu cung. Phía ngoài sân, trước thềm đại bái, hai đầu hồi có hai tượng chó đá, chính giữa có hai bệ đá chạm khắc rồng tinh tế, tỉ mỉ bằng đá Lam Sơn (Thanh Hóa). Hai dãy nhà hai bên (tả mạc – hữu mạc) hơi lùi xuống so với tòa Đình chính. Nhìn tổng thể từ ngoài vào cổng đình Hà Hồi có tới 5 cửa hay còn gọi là (ngũ môn), khác với những ngôi đình khác, cổng được xây dựng thiết kế theo hình vòng cung, ôm lấy ngôi đình, ba cửa chính giữa có dáng dấp của một tam quan, cửa chính cao tới 15m, tầng dưới được xây thành những khối vuông, cửa dạng cuốn vòm, mái kiểu chồng diêm lợp ngói ri. Hai bên cửa phụ được xây dựng nhỏ hơn, theo kiểu một tầng, nối với tường chạy bao quanh diện tích vào đến nhà Tả mạc - hữu mạc. Qua khỏi Ngũ môn nối với khoảng sân hẹp bắc qua thủy đình là chiếc cầu gạch có 5 nhịp, thành cầu được trang trí những viên gạch có màu men xanh ngọc. Có thể nói, Đình Hà Hồi là công trình kiến trúc nghệ thuật, toàn bộ không gian là tổng hòa của tri thức, ở đó mang hồn cốt kiến trúc dân tộc, ẩn chứa trong mình cả một hệ thống văn hóa – lịch sử. Với những giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử, Đình Hà Hồi như một báu vật lịch sử mà tiền nhân để lại cho hậu thế. Ngày 23/12/1985, Đình Hà Hồi đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 4033 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Tổng La Phù

Đình Tổng La Phù là ngôi đình của tứ dân La Uyên, Phúc Trại, Thọ Ngãi, Mai Hồng (xã Tân Minh) và Mai Sao (xã Nguyễn Trãi), tổng La Phù, huyện Thượng Phúc xưa (nay thuộc xã Tân Minh, huyện Thường Tín, Hà Nội), xây dựng nên cách đây gần năm thế kỷ. Đình vẫn được gọi theo tên tổng là đình La Phù. Đình tọa lạc trên một mảnh đất vìa làng thôn La Uyên, phía trước đình là dòng sông Nhuệ Giang, con đường giao thương thủy quan trọng của đất nước, nối kinh đô Thăng Long về miền Sơn Nam Thượng trước kia. Đây cũng là một trong số ít ỏi những ngôi đình tổng cổ xưa nhất không chỉ của Hà Nội, mà của cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Theo như cuốn ngọc phả và những tư liệu dã sử trong dân gian cho biết, đình Là thơ 3 vị thần là đức thánh cả Minh Lang đại vương, đức An Lang đại vương và đức Xạ Thần đại vương. Tam vị đại vương là những vị anh hùng, có công với dân với nước, hiển linh được nhân dân tôn vinh. Đức thánh cả Minh Lang đại vương chính là tướng quân Nguyễn Phúc, một cựu thần thời hậu Lê. Ông vốn là người xã Đoàn Tùng, huyện Trường Tân của xứ Đông (nay thuộc Hải Dương), đỗ tiến sĩ Hoàng giáp khoa Quý Dậu, năm Thái Hòa 11 (1453) triều Lê Nhân Tông. Cuộc đời làm quan, ông từng giữ chức Hàn lâm đại học sĩ, kiêm chức chức Thái phó, thầy dạy Lê Thánh Tông lúc nhỏ tuổi. Khi vua Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, sai Nguyễn Phúc chỉ huy việc vận chuyển quân lương. Trên đường biển vận chuyển gặp gió bão, quân lương vào chậm một ngày nên bị tử phạt theo quân luật. Do có quân lương nên nhà vua mới đánh thắng quân Chiêm Thành. Khi trở về luận công ban thưởng, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Phúc và phong cho ông là Minh lang Đại vương, hộ quốc cứu dân, bảo quốc công thần, đồng thời, sắc chỉ cho 72 nơi thờ phụng. Nguyên xưa đình chỉ có một ngôi nhà Đại bái, công trình kiến trúc nghệ thuật xây dựng từ thời Mạc, cấu trúc mặt bằng hình chữ nhật dài 24m30m, rộng 9m30, hiên rộng 1m30, bốn mái đình rộng, xòe thấp. Các tàu mái bốn phía chạy uốn hình mạn thuyền, giao nhau tạo các góc đao uốn cong lượn lên trời. Tàu đao gỗ chạm cánh hoa. Bờ nóc, bờ dải mái đình đắp bờ đinh. Các lá mái đình lớp ngói mũi hài. Vào thời Nguyễn đời vua Bảo Đại 11 (1936) xây thêm hậu cung 3 gian là một ngôi nhà ở phía sau nằm song song với Đại bái. Đến năm 1948, giặc Pháp đốt phá hậu cung, khi hòa bình thống nhất đất nước nhân dân đóng góp xây dựng lại. Đặc biệt, về nghệ thuật điêu khắc thời Lê – Mạc trên kiến trúc hai bộ vì gian giữa phía sau giáp hậu cung, một bộ rường cốn có mảng điêu khắc nghệ thuật đúc chạm lộng một con rồng tạo nên khối hình ô van, con rồng hình yên ngựa, đấu đầu vào giữa thân lộ ra đôi mắt lồi, mũi tròn, miệng loe, tai dơi, từ đầu rồng phát ra hai phía những tia mác mảnh. Đây là tác phẩm nghệ thuật điêu khắc trên gỗ của thời Mạc khá sinh động. Trên bộ vì hạ rường cốn thứ hai phía sau giáp hậu cung được chạm rồng thời Mạc ở trên đấu, trên thân đầu rường và mảng cốn. Con rồng ở đây nguyên hình thể khối hình yên ngựa tai lớn, mắt lồi, đuôi bút lông. Mặt rồng ở giữa đặt trên lưng yên ngựa, miệng rộng, mũi dẹt và trán nhô cao. Những gì còn sót lại ở đình La Phù, tuy không nhiều nhưng cũng đã góp phần cung cấp tư liệu cho việc nghiên cứu mỹ thuật. Thời Mạc đình là một trong 5 ngôi đình mang dấu ấn của đình cổ xưa nhất. Phía tiếp sau là hậu cung, ngôi nhà 3 gian nằm phía sau và chạy song song với Đại bái được xây tường hồi bít đốc, hai mái chảy, lợp ngói ri bờ nóc chữ đinh, kìm đấu hình chữ nhật, kiến trúc gỗ của những bộ vì làm theo hình thức quá giang kèo cầu và có hệ thống trần vòm của mái cua. Hiện, đình Là còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý hiếm như thần phả, 38 đạo sắc phong, đạo sớm nhất đời vua Lê Vĩnh Thịnh (1705); một kiệu bát cống chạm đầu rồng, miệng ngậm ngọc, mũi to tròn, bờm tóc lưới mác bay về phía sau phong cách nghệ thuật thời Lê; 5 tấm ván thưng chạm rồng yên ngựa thời Mạc; 2 rùa đá nghệ thuật điêu khắc thời Lê; 3 bộ hoành phi câu đối; 3 cỗ ngai chạm khác đầu rồng thời Nguyễn… Mỗi năm đình Là mở hai lần hội, xuân thu nhị kỳ. Trong đó hội chính là vào ngày 12 tháng 8 âm lịch. Hội lệ hàng năm vẫn diễn ra bình thường, nhưng hội chính thì 2 năm mới tổ chức một lần và 3 ngày 11, 12, 13 tháng 8 âm lịch. Với những giá trị về lịch sử, văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật, đình Là đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích cấp Quốc gia năm 2003. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 3875 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Dâu

Chùa Dâu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nơi khởi nguồn của đạo Phật. Đây là một trong những điểm du lịch tâm linh tiêu biểu của tỉnh Bắc Ninh, thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến hành hương, tìm hiểu về giá trị lịch sử. Chùa Dâu còn có tên gọi là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng Tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, được chứng nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2013. Đây là trung tâm Phật giáo cổ xưa nhất của Việt Nam. Chùa còn được người dân gọi với những tên gọi khác nhau như chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Thiền Định tự. Đây là ngôi chùa được coi là có lịch sử hình thành sớm nhất Việt Nam mặc dù các dấu tích vật chất không còn, nó đã được xây dựng lại. Chùa là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay. Đây cũng là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4. Chùa Dâu được xem là ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Chùa nằm ở vùng Dâu, thời thuộc Hán gọi là Luy Lâu. Tại vùng Dâu có năm ngôi chùa cổ: chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ , chùa Tướng thờ Pháp Lôi , chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương là mẹ của Tứ Pháp. Năm chùa này ngoài thờ Phật còn thờ Tứ Pháp. Chùa Đậu tại vùng Dâu đã bị phá hủy trong chiến tranh nên pho tượng Bà Đậu được thờ chung trong chùa Dâu. Trong Tứ Pháp thì Pháp Vân đứng đầu, Thạch Quang Phật (tảng đá trong cây Dung thụ) luôn ở bên Pháp Vân và Pháp Vân đại diện cho cả Tứ Pháp, mỗi khi triều đình thỉnh tượng về kinh đô cầu đảo, có thể rước cả bốn tượng hoặc chỉ mình Pháp Vân. Có thể nói Tứ Pháp thì Pháp Vân, Pháp Vũ được thờ cúng rộng rãi hơn cả nhưng Pháp Vân là trọng tâm, nên Chùa Dâu đã trở thành trung tâm của tín ngưỡng này ở cả vùng Dâu lẫn cả nước. Nhà Tiền thất gồm 7 gian, 2 chái, bên trong bày một số bộ bàn ghế để khách thập phương sắp lễ trước khi vào lễ Phật. Nổi bật nhất trong các công trình của chùa là tòa tháp Hòa Phong. Theo thư tịch cổ, vào thời Trần, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cho trùng tu chùa Dâu, xây tháp cao 9 tầng. Những kiến trúc của tòa tháp hiện còn là của thời Lê Trung Hưng. Tháp được xây bằng gạch nung già, với 3 tầng, cao 15m. Bên ngoài tháp có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Trong tháp có 4 tượng Thiên Vương - 4 vị thần trong truyền thuyết cai quản 4 phương trời. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Nhà Tiền đường gồm 7 gian, 2 chái. Trước nền nhà là tam cấp chạy suốt 5 gian giữa. Ở gian chính giữa có 2 thành bậc đá chạm rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Trần. Tại Tiền đường có các ban thờ Hộ Pháp, Đức Ông, Đức Thánh Hiền, Bát Bộ Kim Cương. Tượng Pháp Vân được thờ trong nhà Thượng điện. Đây là một trong 4 pho tượng trong hệ thống tượng Tứ pháp vùng Dâu ​-Luy Lâu được công nhận là Bảo vật quốc gia. Tượng Pháp Vân uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Khu vực nối tiền thất và hậu đường là nơi thờ Thập bát La Hán (18 đệ tử đắc đạo của Phật đã tu đến cảnh giới La Hán). Ngoài ra, các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện. nguồn 'Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh'

Bắc Ninh 2999 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Đền thờ Nguyễn Trãi .

Nhà thờ Nguyễn Trãi thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội. Nguyễn Trãi (1380 - 1442), người anh hùng dân tộc, nhà văn hoá kiệt xuất, là danh nhân văn hoá thế giới, đã được Tổ chức-giáo dục Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận năm 1980. Nhà thờ Nguyễn Trãi được xây dựng ở thôn Nhị Khê, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín. Ở Côn Sơn (Hải Dương) và các nơi khác cũng có đền thờ danh nhân - anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Cổng làng Nhị Khê đắp nổi bốn chữ Hán lớn: “Như kiến đại tân” (như thấy người khách lớn). Đó là tấm lòng của cổ nhân quý khách đến làng. Cổng này còn có tên gọi là “Cổng Quốc” - tương truyền gọi như vậy là để tưởng nhớ vị khai quốc công thần Nguyễn Trãi. Qua Cổng Quốc một đoạn đường ngắn là tới khu vực nhà thờ Nguyễn Trãi có tượng đài Nguyễn Trãi, nhà thờ, nhà trưng bày “Thân thế sự nghiệp Nguyễn Trãi”, thư viện Nhị Khê. Từ đó đến nay nhà thờ đã đón tiếp hàng triệu lượt khách đến tham quan chiêm ngưỡng và mọi người cùng có cảm tình với một tác phẩm có nội dung tốt, đã khắc họa chân dung Nguyễn Trãi - con người văn võ toàn tài. Qua khu tượng đài là đến nhà thờ. Phía trước nhà thờ có hồ bán nguyệt. Nhà thờ có hệ thống cột trụ, tường bao, cổng pháo... được đắp vẽ công phu theo kiểu đình làng. Qua một sân gạch nhỏ là tới Đại bái, nhà thờ Nguyễn Trãi được xây dựng bằng gỗ tứ thiết, đầu hồi bít đốc, trên lợp ngói ri cổ. Nhà thờ mang dáng dấp kiến trúc thời Nguyễn - kết quả của những tu bổ ở thế kỷ XIX. Nghệ thuật kiến trúc thiên về bền chắc, bào trơn, đóng bén. Nét nổi bật ở tòa Đại bái là các bức đại tự, hoành phi và câu đối đều được sơn son thếp vàng hoặc thếp bạc phủ hoàn kim thể hiện lòng tôn kính, biết ơn đối với bậc công thần, đại thi hào Nguyễn Trãi. Đó là các hoành phi: Khai quốc nguyên huân, Bình Ngô khai quốc, Bình dị cận dân.. Trên ban thờ Nguyễn Trãi ở Hậu cung có bức tranh chân dung Nguyễn Trãi, hòm sắc phong của các triều Lê và Nguyễn. Đặc biệt có một biển để trang trọng lời vua Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 5 (1464) “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo” (tấm lòng Nguyễn Trãi sáng đẹp như sao khuê). Đó là lời minh oan của nhà vua đối với Nguyễn Trãi. Đến thăm nhà thờ Nguyễn Trãi, khách sẽ được giới thiệu “Trại Ổi”, “Ao Huệ” nói về thân phụ của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh đã mở trường dạy học. Sự nghiệp vĩ đại của Nguyễn Trãi in đậm lên mảnh đất Nhị Khê. Nhà thờ Nguyễn Trãi đã được tu sửa nhiều lần. Nhân Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, thành phố Hà Nội và huyện Thường Tín đã đầu tư kinh phí để trùng tu, tôn tạo lại toàn bộ khu tưởng niệm Nguyễn Trãi. Nhà thờ Nguyễn Trãi đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử lưu niệm danh nhân năm 1964. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội .

Hà Nội 5122 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Đậu

Chùa Đậu (Thường Tín, Hà Nội) được công nhận hai kỷ lục quốc gia: Là nơi có tượng nhục thân đầu tiên ở Việt Nam và sở hữu cuốn sách ghi lịch sử chùa bằng đồng có nhiều trang và cổ xưa nhất Việt Nam. Tọa lạc trên một gò đất cao giữa cánh đồng làng Gia Phúc (xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, Hà Nội), Chùa Đậu - Đệ nhất danh lam cổ tự - trong hơn 1.800 năm qua vẫn luôn trầm mặc dưới bóng những hàng cây xanh mát, xung quanh là các hồ nước bao bọc và dòng sông Nhuệ hiền hòa chảy phía sau. Chùa Đậu có tên chữ là Thành Đạo Tự hoặc Pháp Vũ Tự, dân gian thường gọi là chùa Vua, chùa Bà, hay chùa Đậu, mỗi tên gọi đều gắn với một huyền tích. Theo cuốn sách cổ bằng đồng hiện vẫn đang được lưu ở Chùa Đậu, chùa được khởi công xây dựng từ thời Sỹ Nhiếp vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên, cùng thời điểm xuất hiện sự tích về Phật mẫu Man Nương và hệ thờ Phật Tứ Pháp (bao gồm Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Ban đầu, chùa có tên là Thành Đạo Tự, sau khi chùa rước Đại thánh Bồ tát Pháp Vũ (vị nữ thần cai quản mưa) về thờ thì được gọi là Pháp Vũ Tự. Thời phong kiến, ngôi chùa chủ yếu dành cho các vị vua đến lễ Phật, còn người dân chỉ được vào lễ bái khi có lễ hội nên dân gian gọi là Chùa Vua. Chùa thờ Bồ tát Pháp Vũ hiện thân là nữ nên người dân cũng gọi là chùa Bà. Ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng, các bậc chí sỹ cầu nghiệp lớn ở đây đều thi đậu khoa bảng, công thành danh toại; người làm nông cầu mùa màng bội thu cũng được như ý nguyện nên dân gian gọi tên khác là Chùa Đậu. Dưới thời vua Lê Thần Tông (thế kỷ XVII), chùa bị xuống cấp, sau đó được trùng tu lại, uy nghiêm và khang trang hơn. Sau đó, Vua ban sắc phong chùa là “An Nam đệ nhất danh lam” tức "Danh lam số một của nước Nam." Phật tử và nhân dân quanh vùng coi là đất Phật bởi sự linh ứng mà chùa mang lại. Chùa Đậu không chỉ có địa thế tuyệt đẹp như đang ngự trên bông hoa sen đang nở, mà còn là một quần thể kiến trúc nguy nga mang những nét nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của các vương triều Lý-Trần-Lê-Nguyễn. Đặc biệt, chùa nổi tiếng với nhục thân Bồ tát của hai vị thiền sư tu hành đắc đạo Vũ Khắc Trường và Vũ Khắc Minh. Đây là hai trường hợp cực kỳ hiếm gặp trong chặng đường tu tập Phật giáo của các bậc thiền sư trong nước và trên thế giới. Với bề dày lịch sử, lưu giữ nhiều giá trị văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật, Chùa Đậu đã được Nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử, nghệ thuật loại A từ năm 1964. Hai pho tượng nhục thân của hai vị thiền sư được Nhà nước công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2016; Chùa Đậu cũng được xác lập kỷ lục là ngôi chùa có tượng nhục thân đầu tiên tại Việt Nam. Nguồn Cổng thông tin điện tử huyện Thường Tín , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 4274 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền Bà Kiệu

Đền Bà Kiệu tọa lạc tại số 59 Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Theo sử sách, đền Bà Kiệu có tên chữ là “Thiên Tiên điện” hay “Huyền Chân Từ”, trước đây thuộc thôn Tả Vọng, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội. Giữa thế kỷ XIX, đền thuộc thôn Hà Thanh, phường Đông Các, huyện Thọ Xương. Đầu thế kỷ XX, đền thuộc phố Bờ Hồ (Rue du Lac), tọa lạc theo hướng Nam, đối diện đền Ngọc Sơn. Đền thờ ba vị nữ thần là Liễu Hạnh Công chúa, Đệ nhị Ngọc Nữ và Đệ tam Ngọc Nữ (Quỳnh Hoa và Quế Hoa). Theo Thăng Long cổ tích khảo thì đền xây vào thời nhà Lê triều Vĩnh Tộ (1619-1628), đến triều Cảnh Hưng thì mở rộng thêm. Vào thời Tây Sơn triều Cảnh Thịnh đền đúc quả chuông lớn. Triều vua Tự Đức ngôi đền được tu sửa lần nữa. Đền Bà Kiệu xưa kia khá khang trang trong một khuôn viên đẹp và rộng rãi. Năm 1891, do thực dân Pháp xây đường vòng quanh Hồ Gươm nên khu đền bị tách làm hai phần: Tam quan nằm sát ven hồ Gươm gồm ba gian xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”, mái lợp ngói ta với các bộ vì kiểu chồng rường đỡ mái, thân các con rường chạm nổi hoa văn thực vật, vân mây; Kiến trúc chính gồm đại bái, phương đình và hậu cung được xấp theo dạng chữ “công”. Nhà đại bái gồm ba gian xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta, mái nhỏ đều như gợn sóng . Bộ mái gần gũi với phong cách kiến trúc của cố đô Huế. Bờ nóc có dạng bờ đình, bên trên gắn hình cá hoá rồng bằng gốm hoặc men xanh đang nhìn vào bình nước thiêng ở giữa. Bộ khung được làm khá vững chắc với 8 cột trụ bằng gỗ lim, chu vi cột cái 115cm, cột quân 105cm. Các cột hiên nhỏ hơn được làm bằng đá trắng, hình hộp chữ nhật mỗi cạnh rộng 25cm. Nhà Tiền tế có 4 tượng cá chép hóa rồng đặt trên xà và dưới điểm của hai mái sau, trước. Các tường dẹt, được thể hiện khá sinh động, chau chuốt và đem lại hiệu quả đáng kể cho kiến trúc đến. Liền sau tiền tế là một kiến trúc nhỏ dựng trên bốn chân cột lớn kiểu phương đình, hai tầng bốn mái. Bốn mái chạm mảng hoa văn truyền thống phổ biến theo kiểu kiến trúc thời Nguyễn. Hậu cung là nơi tọa lạc của các vị thần được thờ với một nếp nhà ngang xây gạch kiểu “tường hồi bít đốc”. Các nữ thần được tọa lạc trong một khám thờ lớn, chạm khắc cầu kỳ. Lớp trên gồm ba pho trong tòa Thánh Mẫu. Lớp dưới có các tượng Công chúa Liễu Hạnh và hai tiên nữ Quỳnh Hoa, Quế Hoa. Ngoài khám thờ còn có bốn tượng nhỏ (hai tượng cô, hai tượng cậu). Hai bên có hai khám thờ nhỏ, bên phải đặt tượng chầu thủ đền, bên trái là Bà Chúa Thượng Ngàn. Hai bên là nơi thờ những vị thần phổ biến trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Đền Bà Kiệu hiện còn giữ được bộ sưu tập di vật văn hoá lịch sử gồm nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau trải dài qua ba triều đại Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Trong đó phải kể đến bốn tấm bia đá dựng năm Cảnh Thịnh 8 (1800), Tự Đức 19 (1866) cùng hệ thống 27 đạo sắc từ triều Lê, Tây Sơn đến Nguyễn phong thần cho Bà Chúa Liễu và hai vị tiên nữ. Di tích đền Bà Kiệu đã được Bộ văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 2/5/1994. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 4124 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Vũ Thạch

Đình, đền Vũ Thạch có địa chỉ ở số 13 phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đình, đền và chùa Vũ Thạch đã may mắn thoát khỏi sự phá huỷ vào cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 khi thực dân cho dỡ bỏ làng cũ để xây nhiều công sở và phố Tây. Thời Pháp thuộc, cụm di tích đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần qua các năm: Tự Đức thứ 35 (1882), Thành Thái thứ 3 (1891) và Khải Định thứ 9 (1924). Đình Vũ Thạch là một trong những nơi thờ Khỏa Ba Sơn, vị tướng của Hai Bà Trưng. Theo các tư liệu còn lại, ông được Hai Bà cho lĩnh 500 quân tới ấp Hoa Động (nay thuộc xã Cự Khối, huyện Gia Lâm, Hà Nội) lập một đồn giả để lừa quân Hán, nhờ đó mà đánh bại được thái thú Tô Định. Sau khi lên ngôi, Hai Bà Trưng cử Khỏa Ba Sơn trở về đóng đồn tại ấp Hoa Động, song ông đã hoá ngay giữa buổi tiệc khao thưởng dân làng. Nơi thờ chính của ông hiện ở làng Xuân Đỗ, xã Cự Khối. Tại đây có cuốn Thánh tích ngọc phả ghi rất rõ về gốc tích và công trạng của ông, trong sách ghi niên đại “tháng trọng thu niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 6” (tức năm 1740). Để tưởng nhớ công ơn vị thần này, dân làng Vũ Thạch mở hội đình vào ngày 10 tháng 2 và 15 tháng 10 Âm lịch hàng năm. Trong những ngày này bao giờ cũng có một đoàn của làng Xuân Đỗ (Hạ) đến cùng tham gia. Lễ hội có rất nhiều trò chơi dân gian truyền thống như hát ca trù, hát văn, biểu diễn võ dân tộc. Ngôi đình Vũ Thạch từng là nơi đặt hòm phiếu bầu Quốc hội khoá 1 (6-1-1946) và là nơi đóng quân Tự vệ thành Hà Nội trong 60 ngày kháng chiến cuối năm 1946 đầu năm 1947. Năm 1995, phường Tràng Tiền đã tiến hành dựng Bia tưởng niệm 77 anh hùng liệt sỹ là công dân của phường. Trải qua mấy trăm năm, đình Vũ Thạch đã được trùng tu nhiều lần. Khoảng sân trước đại đình có lẽ đã bị thu nhỏ diện tích khi người Pháp bắt đầu mở rộng phố xá. Phía sau và hai bên đình cũng bị dân lấn chiếm một phần đất. Dáng vẻ hiện nay cho thấy ngôi đình mang phong cách nghệ thuật kiến trúc của thời Nguyễn. Đình quay về hướng tây, cổng tam quan và bức tường dài xây giáp liền với hè phố Bà Triệu phủ bóng cây xanh. Nhà đại bái rộng 5 gian, kết cấu với thượng điện thành hình chuôi vồ, bên trong bài trí trang nghiêm theo lối truyền thống. Trong đình Vũ Thạch hiện có pho tượng thánh Khỏa Ba Sơn cùng 30 ngai thờ sơn son thiếp vàng, trong đó 5 ngai lớn được chạm trổ rất công phu. Đình cũng giữ được cỗ kiệu bát cống và bốn đôi lọ lộc bình men trắng vẽ lam có niên hiệu đời Thanh. Hoành phi, câu đối, cửa võng, hương án đều được trang trí đẹp đẽ, các đồ tế khí thể hiện trình độ chế tác rất cao. Đặc biệt nơi đây hiện còn lưu 5 sắc phong của các vị vua nhà Nguyễn mang niên hiệu khác nhau rải rác suốt thế kỷ 19: Gia Long (năm 1802), Tự Đức (1852 và 1879), Đồng Khánh (1886), Thành Thái (1889). Những sắc phong này đều thể hiện sự kính trọng đối với danh tướng Khỏa Ba Sơn. Đình Vũ Thạch và đền Mẫu liền kề cùng với chùa Vũ Thạch (trong ngõ 13b Bà Triệu) đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là một cụm di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào năm 1986. Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 3785 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình Đạm Xuyên

Đình Đạm Xuyên tọa lạc ở xã Tiền Châu thị xã Phúc Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Đình thờ 3 vị thần là Cao Bi Hùng Thánh Đại Vương; Dương Uy Phấn Vũ Đại Vương và Thủy Tinh Thần nữ công chúa. Đình nằm trên khu đất rộng khoảng 1.000m², có diện tích xây dựng là 220m², hướng Tây Nam. Ngôi đình gồm ba phần chính: đại đình, hậu cung và hậu tế, tạo thành hình chữ “Công”, một kiểu kiến trúc đặc trưng phổ biến trong các đình chùa cổ của Việt Nam. Đình được xây bằng gạch vuông cổ, với mái lợp ngói mũi hài và đầu đao được tạo dáng rồng cuốn, thể hiện sự uy nghiêm và truyền thống. Hệ thống cửa bức bàn có chấn song con tiện, giúp không gian bên trong ngôi đình luôn thông thoáng. Tòa đại đình (tiền tế) có 5 gian, là nơi diễn ra các nghi lễ quan trọng; tòa hậu tế có 3 gian, và hậu cung có 2 gian, là nơi thờ cúng chính. Tất cả các cột và vì kèo trong đình đều được làm bằng gỗ lim, loại gỗ nổi tiếng với độ bền cao, mang lại sự vững chắc cho công trình. Nghệ thuật chạm khắc trên gỗ của đình rất công phu và tinh xảo, lấy đề tài từ tứ linh: Long, Lân, Quy, Phượng, biểu tượng cho sự thịnh vượng và quyền uy. Đặc biệt, các nét chạm trổ ở 4 “cổn” theo kiểu “lộng” với hình rồng cuốn được thực hiện một cách mềm mại, uyển chuyển, thể hiện rõ thần thái của rồng đang cuộn mình bay lên, tạo nên một hình ảnh sống động và mạnh mẽ. Ngoài ra, một số chi tiết chạm khắc khác trên các bức thuận và đầu kèo như cảnh “sư tử vờn cầu” và “tùng lộc mai điểu” mang đến sự sinh động, bay bổng, thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân. Những chi tiết này không chỉ là điểm nhấn thẩm mỹ mà còn phản ánh giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống, góp phần quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản kiến trúc đình làng Việt Nam. Sự tồn tại của đình Đạm Xuyên là minh chứng cho sự sáng tạo và tâm huyết của người xưa, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa dân tộc. Hiện tại, đình làng Đạm Xuyên vẫn còn bảo tồn được ba cỗ ngai thờ, gồm một ngai bà và hai ngai ông, tất cả đều được sơn son thếp vàng tinh xảo. Trong tòa đại đình, ba câu đối cổ có niên đại hàng trăm năm vẫn được gìn giữ. Đình cũng có hai cỗ kiệu bát cống, trong đó một cỗ thuộc thời Lê và một cỗ thuộc thời Minh Mạng. Đáng chú ý, hiện vật bằng đá còn lại là một tấm bia được lập vào năm Tự Đức 1870, ghi chép về sự tích của ba vị thần được thờ tại đình. Ngoài ra, đình còn lưu giữ tám đạo sắc phong, phần lớn từ thời Nguyễn (1810-1924). Những hiện vật này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn phản ánh đậm nét văn hóa và tín ngưỡng của cộng đồng dân cư qua nhiều thế kỷ. Các hiện vật tại đình làng Đạm Xuyên không chỉ là biểu tượng của truyền thống và sự tôn kính mà còn là minh chứng cho sự liên tục của văn hóa địa phương trong dòng chảy lịch sử.

Phú Thọ 3120 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Chùa Quán Sứ

Chùa Quán Sứ là một ngôi chùa ở số 73 phố Quán Sứ, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trước đây, địa phận này thuộc thôn An Tập, phường Cổ Vũ, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi là tổng Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương. Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15, năm 1942 được xây dựng lại và năm 1980 trở thành trụ sở trung ương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Sách “La thành cổ tích vịnh” do tiến sĩ Trần Bá Lãm soạn năm 1787 viết rằng: vào khoảng đời vua Trần Dụ Tông (1341—1369) triều đình cho dựng một tòa sứ quán để tiếp sứ thần các nước láng giềng Chiêm Thành, Vạn Tượng và Ai Lao. Triều ta vẫn theo nề nếp ấy. Từ đời Lê trung hưng về sau sứ thần có đến cống nạp phương và nghỉ ngơi ở đây … cho xây ngôi chùa thờ Phật để trấn yểm từ đó mới được bình an vô sự. Nhân thế gọi tên chùa Quán Sứ. Năm 1942 sư Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt cho chùa xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng, với nghệ thuật kiến trúc và trang trí kết hợp tinh hoa từ các ngôi chùa lớn của miền Bắc. Mặt bằng các công trình tuân theo truyền thống “nội Công ngoại Quốc”. Tam quan chùa có ba tầng mái, ở giữa là lầu chuông. Một nét rất mới là ở đây tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Đi qua cổng tam quan rồi qua sân trước, du khách bước tiếp lên 11 bậc thềm mới tới chính điện. Toà Tam bảo xây cao đặt ở trên tầng hai, tầng dưới là để cách ẩm. Điện Phật được bài trí trang nghiêm, các pho tượng đều có kích thước khá lớn và thếp vàng lộng lẫy. Phía trong cùng, thờ tượng ba vị Phật Tam Thế trên bậc cao nhất. Bậc kế tiếp thờ tượng Phật A-di-đà ở giữa, hai bên có các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Bậc dưới đó, ở giữa thờ tượng Phật Thích-ca, hai bên là các tượng tôn giả A-nan-đà và Ca-diếp. Bậc thấp nhất, ở ngoài cùng có tòa Cửu Long đặt giữa các tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Địa Tạng Vương. Gian bên phải chính điện thờ Lý Quốc Sư (tức Thiền sư Minh Không) với hai thị giả, gian bên trái thờ tượng Đức Ông. Bốn mặt xung quanh chùa Quán Sứ là những hàng hiên thoáng mát có các cột vuông chống đỡ. Hai dãy hành lang dài cách Tam bảo một khoảng sân đủ hút gió. Hương hoa đại thoang thoảng khắp nơi. Chùa Quán Sứ mới đây lại được trùng tu và nâng cấp, chủ yếu ở khu vực giữa và phía sau. Các tòa nhà chính và nhà phụ đều xây cao và rộng rãi, tường vẫn được quét vôi vàng như trước kia. Toà hậu đường gồm có 3 tầng, tầng giữa nối với chính điện qua một cầu thang lộ thiên. Chùa Quán Sứ có cả hội trường, giảng đường và thư viện Phật giáo. Chùa đủ chỗ để đặt văn phòng Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam). Chùa cũng là nơi đặt văn phòng Hội đồng trị sự, văn phòng Hội đồng chứng minh và phòng khách quốc tế. Hiện nay các vị hòa thượng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hội đồng trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng các vị thượng tọa, đại đức, tăng ni của văn phòng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đều làm việc ở chùa Quán Sứ. Các hội nghị Phật giáo ở cấp quốc tế và quốc gia cũng thường được tổ chức tại đây. Trong các dịp lễ lạt và cả ngày thường, chùa cũng có rất đông Phật tử và du khách đến thăm viếng. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 4193 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Huyền Thiên Quán

Chùa Huyền Thiên Quán vốn là một quán của Đạo giáo, rồi chuyển thành chùa từ cuối thời Lê, hiện nay ở số 54 phố Hàng Khoai. Tương truyền quán Huyền Thiên được lập từ thời Lý và sớm nổi tiếng là một trong “Thăng Long Tứ quán” của đạo Lão (ba quán kia gồm: Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên; Chân Vũ quán, tức đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành). Cuối thời Lê, đạo Lão suy tàn, quán chuyển thành chùa. Công trình được tu bổ, sửa chữa nhiều lần và định hình kiến trúc từ cuối thời Nguyễn trên địa phận thôn Huyền Thiên, tổng Hậu Túc, huyện Thọ Xương. Tại đây có hai dịp lễ lớn vào ngày 3/3 và 9/9 âm lịch hàng năm. Quán Huyền Thiên vốn là nơi thờ Huyền Thiên Thượng Đế, vị thần trấn phương Bắc được thờ ở đền Quán Thánh. Tục thờ này xuất hiện ở nước ta từ thời Bắc thuộc. Trong quán có một pho tượng của Ngài bằng gỗ trầm. Khi đạo Lão suy, đạo Phật thịnh, dân trong thôn đưa tượng Phật vào thờ chung, từ đó cũng quen gọi là chùa Quán Huyền Thiên hay đền Huyền Thiên. Văn bia “Trùng sáng Huyền Thiên bi minh” niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 ghi rõ “…Đây thuộc về phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, Phụng Thiên … tên là Huyền Thiên cổ quán… Phía đông gối vào sông Nhị Hà trắng xoá, phía tây nhìn sang non Tản xanh lơ, phía nam có cầu (Hà Kiều) phía bắc có chùa Hồng Phúc, thật là thắng tích …. Quán có từ thời Lê năm Thiệu Bình thứ 7 (1439)”. Bia còn cho biết hồi đó (tức năm 1628) nơi đây đã có 13 gian thờ Phật, thờ Mẫu và thờ thần Huyền Thiên. Tấm bia dựng năm Cảnh Trị thứ 6 (1668) đời vua Lê Huyền Tông ghi: quán được tô tượng, trùng tu tam quan, gác chuông, hành lang, thiêu hương, thượng điện, tương Tự như kiểu các ngôi chùa lớn thời Trần-Lê. Lại được “đúc chuông mới và san khắc sách Thánh đạo giáo kinh khoa, cả thảy 4 quyển lưu tại bản quán”. Việc trùng tu với quy mô lớn lần này là do chính chúa Trịnh ban Lệnh chỉ, nên có các cung tần trong phủ chúa cùng quan lại trong triều đóng góp công đức. Năm Cảnh Thịnh thứ 1 (1793) thời Tây Sơn chùa lại được trùng tu và đúc chuông. Thời Nguyễn chùa cất thêm 7 gian nhà hậu vào năm Tự Đức thứ 21 (1868). Đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp lấp hồ và mở rộng phố xá, chùa bị thu hẹp. Năm Bảo Đại thứ 5 (1930) phần lớn công trình của chùa được xây dựng lại và định hình như hiện nay. Những ngày kháng chiến đầu năm 1947, chùa bị tàn phá, tượng thần Huyền Thiên bị cháy. Năm 1948 dân sở tại cùng khách thập phương quyên góp khôi phục chùa theo bố cục cũ kiểu “nội Công, ngoại Quốc”. Từ ngoài vào bao gồm cổng nghi môn, gác chuông, qua sân đến hai nhà bia, hai giếng cổ và nhà bái đường 7 gian xây kiểu vọng lâu 2 tầng 8 mái, nơi thờ thần Huyền Thiên. Thiêu hương chạy dọc như thượng điện, nối với 2 gian nhà ngang phía sau. Áp vào hai đầu hồi là hai dãy hành lang, nay dùng làm nhà khách. Năm 2014 chùa lại được trùng tu sau nhiều năm bị lấn chiếm và xuống cấp. Hai bên sân trước nhà bái đường có 2 bia đá lớn được đặt trong nhà bia. Tấm bia cổ mang niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (1668) bị vỡ nứt bề mặt, nhiều chữ không còn. May bản rập đã được Học viện Viễn đông Bác cổ cho in trước năm 1945, hiện lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bia cho biết quy mô kiến trúc của ngôi chùa quán thời đó cùng nhiều thông tin khác. Ngoài ra còn có 40 tấm bia to nhỏ khác nhau khắc chữ Hán Nôm được ốp lên tường dọc theo hai bên tòa bái đường và chính điện. Có một bài minh cho quả chuông nặng 500kg, cao 1m60, đúc năm Cảnh Thịnh thứ 1 (1793) treo ở gác chuông sau cổng. Cũng như các minh văn thời Tây Sơn khác, dòng niên đại Cảnh Thịnh ở đây bị đục bỏ vào thời Nguyễn. Lại có mấy chục văn bia quốc ngữ, chủ yếu khắc sau năm 1954. Trong chùa hiện cũng lưu giữ được các hệ thống tượng Phật giáo, tượng Thánh, tượng Mẫu, tượng đạo Lão cùng các đồ tế khí và trang trí đẹp đẽ. Điện Phật ở sau bái đường được thiết đặt trang nghiêm với nhiều pho tượng gỗ có giá trị nghệ thuật như tượng các vị Bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền và tượng hai vị Hộ pháp cao 3m, v.v… Điện Mẫu ở trong hậu cung được bài trí đầy đủ theo đúng khuôn phép tín ngưỡng dân gian. Chùa Quán Huyền Thiên được xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2008. Nguồn Cổng thông tin điện tử quận Hoàn Kiếm , thành phố Hà Nội.

Hà Nội 4019 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Biện Sơn - Yên Lạc

Biện Sơn là ngôi chùa đẹp của huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc, được xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1996, tọa lạc trên một gò đất cao rộng khoảng 1.5 ha. Xưa kia chùa có tên là Độc Nhĩ, người dân địa phương hay gọi là Núi Biện với dáng quy xà hợp hình rất kỳ lạ. Sử sách còn ghi, vào năm Thành Thái thứ 16, chùa đã được làm với kiến trúc kiểu chữ Môn. Do biến thiên của thời gian, ngôi chùa không còn giữ được kết cấu kiến trúc cổ ban đầu mà được trùng tu, tôn tạo theo kiểu chữ Đinh, kiểu kiến trúc mang đậm phong cách triều Nguyễn gồm 2 tòa bái đường và chính điện. Xung quanh ngôi chùa cảnh vật yên ả, hữu tình, dưới những cây cổ thụ nhiều năm tuổi bao phủ một màu xanh kỳ vĩ. Từ tỉnh lộ 303 đi vào, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầu tiên của ngôi chùa, đó chính là Tam quan. Tam quan được thiết kế theo kiểu trùng diên ba tầng 12 mái và được trang trí hết sức cầu kỳ, tinh xảo. Từ Tam quan có con đường nhất chính đạo gồm các bậc đá được xây theo một triền dốc thoai thoải. Chùa được xây dựng theo thế nội công, ngoại quốc. Trong khuôn viên chùa, có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường ở phía sau làm thành một khu hình chữ nhật bao quanh lấy nhà tiêu hương. So với các ngôi chùa khác trong vùng, chùa Biện Sơn còn bảo lưu được một hệ thống tượng pháp hơn 40 pho và còn lưu giữ được nhiều bảo khí và cổ vật có giá trị. Các pho tượng ở đây được tạo tác rất đẹp, sơn son thếp vàng lộng lẫy, chau chuốt tỉ mỉ, mang đậm phong cách tạo tác thời Lê. Một điểm nổi bật trong công trình kiến trúc phật giáo ở chùa Biện Sơn là tòa Bảo tháp bằng đồng nguyên khối nặng 12 tấn, là một trong số Bảo tháp lớn nhất trong cả nước, lưu giữ nhiều xá lợi Phật, đặc biệt là tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông bằng ngọc xanh nguyên khối…Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã viên tịch và nhà tăng, nơi ở của các nhà sư. Nằm ngay sau tòa thượng điện, chúng ta được chiêm ngưỡng một kiến trúc vô cùng độc đáo nữa, đó chính là tháp quay hay còn có tên gọi khác là cối kinh. Ngày nay, chùa Biện Sơn trở thành điểm dừng chân, tham quan, nghiên cứu của đông đảo du khách trên lộ trình tìm về với cội nguồn dân tộc, là nơi diễn ra lễ hội sông Loan - núi Biện đậm đà bản sắc dân tộc, thu hút đông đảo nhân dân địa phương và du khách, phật tử gần xa về chiêm bái, thưởng ngoạn. Nguồn: visitvinhphuc

Phú Thọ 3716 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp Quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật