Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội. Di chỉ khảo cổ này là minh chứng sống động cho nền văn minh châu thổ sông Hồng trong suốt 13 thế kỷ: bắt đầu từ thời tiền Thăng Long vào khoảng thế kỷ VII, đi qua thời Đinh và tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, hậu Lê, đến triều Nguyễn và tồn tại mãi đến ngày nay. Dấu son Hoàng thành Thăng Long được hình thành vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư đến Đại La và cho xây dựng Kinh thành cũng như hàng loạt cung – điện, trong đó có Hoàng thành Thăng Long. Theo sách sử và tài liệu khảo cổ, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách, bao gồm: vòng ngoài cùng là La thành hay Kinh thành – nơi sinh sống của cư dân, vòng ở giữa là Hoàng thành – khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều, và vòng trong cùng là Tử Cấm thành hay Long Phượng thành – nơi dành cho vua, hoàng hậu, và các thành viên hoàng tộc khác. Những gì chúng ta còn thấy ngày nay ở thủ đô Hà Nội là Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long với diện tích khoảng 20ha (trên tổng diện tích 140ha của Hoàng thành), bao gồm hai khu vực: Khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và Khu di tích Thành cổ Hà Nội. Ngoại trừ Bắc Môn và Kỳ Đài, những công trình còn sót lại chỉ là phục dựng và các di tích khảo cổ được tìm thấy trong suốt nhiều năm. Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long có địa chỉ tại 19C Hoàng Diệu, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Thực tế, toàn bộ cụm di tích được bao bọc bởi bốn con đường: phía Bắc là đường Phan Đình Phùng, phía Nam là đường Điện Biên Phủ, phía Đông là đường Nguyễn Tri Phương và phía Tây là đường Hoàng Diệu, thuộc địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Điểm dừng chân đầu tiên trong cụm di tích Hoàng thành đó là Kỳ Đài, hay thường được gọi là Cột cờ Hà Nội. Đây là di tích có kết cấu dạng tháp, được xây dựng dưới triều Nguyễn từ năm 1805 đến 1812, cùng thời với Hoàng thành Thăng Long. Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế, thân cột, và đài vọng canh, với tổng chiều cao khoảng 33,4m. Bên trong công trình có thiết kế cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên đỉnh - nơi bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh Hoàng thành Thăng Long. Công trình Cột cờ Hà Nội vẫn đứng vững chãi, kiên cố đến ngày nay, và trở thành một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Rời Cột cờ Hà Nội, bạn đi thêm một đoạn nữa sẽ đến Đoan Môn, cổng chính dẫn vào Hoàng thành. Đoan Môn đã xuất hiện từ thời Lý, nhưng kiến trúc mà chúng ta thấy ngày nay là do nhà Lê xây dựng vào thế kỷ XV và nhà Nguyễn tu bổ vào thế kỷ XIX. Đoan Môn là tường thành phía Nam, được xây theo lối kiến trúc cuốn vòm cân xứng gần như tuyệt đối qua “trục thần đạo”, với 5 cổng thành: cổng giữa to nhất dành cho vua, 4 cổng còn lại dành cho quan lại, hoàng thân, quốc thích. Đây là địa điểm được check-in nhiều nhất bởi vẻ hoành tráng, uy nghi của công trình. Bắt đầu từ Đoan Môn, bạn băng qua một khoảng sân lớn gọi là Long Trì, rồi đến Điện Kính Thiên – hạt nhân chính trong tổng thể di tích Hoàng thành. Điện Kính Thiên được xây vào năm 1428, là nơi vua Lê Thái Tổ đăng cơ, về sau trở thành nơi cử hành các nghi lễ long trọng của triều đình, các buổi thiết triều và đón tiếp sứ giả nước ngoài. Hiện nay, công trình này chỉ còn giữ lại được phần nền và hai bậc thềm rồng đá. Tuy vậy, những dấu tích tìm thấy nơi đây cùng đôi rồng chầu đã phần nào gợi lại nét nguy nga, tráng lệ của Điện Kính Thiên năm xưa. Hậu Lâu, hay còn được gọi là Tĩnh Bắc Lâu, là tòa lầu được xây phía sau Điện Kính Thiên, khi xưa là chốn hậu cung – nơi sinh hoạt của hoàng hậu, công chúa, và các cung tần, mỹ nữ. Hậu Lâu xuất hiện từ sau đời hậu Lê, được xây theo kiến trúc hình hộp với ba tầng, kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Pháp. Nét đặc trưng nhất của Hậu Lâu là độ dày của các bức tường, khiến các phòng luôn mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Cuối thế kỉ 19, Hậu Lâu bị hư hỏng nặng, và được người Pháp cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc Môn, hay Cửa Bắc, là một trong năm cửa của thành cổ Hà Nội thuộc thời Nguyễn, và cũng là cửa thành duy nhất còn sót lại. Cửa Bắc được xây dựng xong vào năm 1805, theo lối vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành. Trên lầu hiện là nơi thờ hai vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – người đã cùng dân Hà Nội chiến đấu bảo vệ thành đến chết. Cổng hành cung là nơi canh gác của quân lính, nhằm giữ an toàn cho vua và hoàng tộc. Mỗi cổng hành cung là một công trình có thiết kế cầu kỳ, vững chãi, làm tôn vẻ tráng lệ của cung điện. Trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội hiện còn tồn tại tám cổng hành cung như thế. Chính nhờ những cổng hành cung này mà công việc xác định tọa độ các cung điện và lớp tường thành được chính xác hơn. Ngoài các công trình khảo cổ, trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội còn có hệ thống các công trình kiến trúc Pháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nay được trưng dụng làm trụ sở và cơ quan của Nhà nước Việt Nam.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
5016 lượt xem
Nhà tù Hỏa Lò nằm ở số 1 phố Hỏa Lò, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khu di tích vẫn còn trường tồn với thời gian cho đến tận ngày nay, là một minh chứng rõ nét cho cả một thời kì lịch sử khổ cực mà gian lao, biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của những người con Việt Nam yêu nước. Nhà tù Hỏa Lò, hay còn gọi là ngục Hỏa Lò, xưa có tên tiếng Pháp là Maison Centrale, có nghĩa là đề lao trung ương, còn tên tiếng việt là Ngục thất Hà Nội, là một nhà tù cũ nằm trên phố Hỏa Lò, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngày đó còn là ngoại vi thành phố, với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ, giam giữ chủ yếu là các nhà tù chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu: A,B,C,D, trong đó: Khu A, B: dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. Khu C: dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. Khu D: dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại, bảo tồn để trở thành khu di tích, phục vụ cho mục đích tham quan du lịch của những ai muốn đến và tận mắt chứng kiến khung cảnh của nhà tù thực dân trông như thế nào. Được mệnh danh là chốn “địa ngục trần gian”, là nhà tù đáng sợ nhất Đông Nam Á, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn mà điển hình nhất là cỗ máy chém, cố máy đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Sau khi giải phóng thủ đô năm 1954, nhà tù Hỏa Lò đã từng là nơi được sử dụng để giam giữ tù binh phi công Mỹ cho đến năm 1973. Với vai trò lịch sử của mình, nhà tù Hỏa Lò hiện tại trở thành địa điểm tham quan thú vị ở Hà Nội hấp dẫn rất đông du khách trong và ngoài nước. Nơi đây mở cửa cho tất cả những ai có nhu cầu, mong muốn đến tham quan với mức giá vé vô cùng dễ chịu, 30.000 VND/người, giảm 50% giá cho học sinh, sinh viên, người khuyết tật, người cao tuổi hay những ai thuộc vào diện chính sách xã hội. Ngoài ra, các đối tượng như trẻ em dưới 15 tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng hay người có công với Cách mạng sẽ được miễn hoàn toàn giá vé.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
4833 lượt xem
Tọa lạc tại vị trí trung tâm số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, nhà hát lớn Hà Nội là địa điểm được đông đảo du khách ưa thích ghé thăm mỗi khi có dịp đến với thủ đô. Đây là một công trình kiến trúc được xây dựng bởi người Pháp vào những năm 1901 – 1911 (trong khoảng thời gian đô hộ Việt Nam), lúc bấy giờ nhà hát là nơi chuyên trình diễn các tiết mục nghệ thuật cổ điển xa xỉ như Opera, nhạc thính phòng, kịch nói… cho tầng lớp quan lại hay giới thượng lưu Pháp và một số tư sản Việt. Được lấy cảm hứng từ các công trình kiến trúc Châu Âu nổi tiếng như nhà hát Opera Paris, lâu đài Tuylory… nên “hồn” Châu Âu thấm đượm nơi đây. Một thế kỷ trôi qua với biết bao thăng trầm biến cố, nhà hát lớn Hà Nội đã xuống cấp rất nhiều và gần đây mới được tu sửa lại, thay một diện mạo một sức sống mới. Tạm biệt sắc vàng nhạt nguyên tác, giờ đây nhà hát khoác lên mình lớp áo vàng đậm pha thêm trắng tạo vẻ uy nghi, mỹ lệ. Ngay từ bên ngoài nhà hát chúng ta đã có thể cảm nhận được “hơi thở” Châu Âu với những đường nét họa tiết tinh tế, chạm khắc hoa văn cổ điển. Bước vào sảnh chính, du khách không khỏi cảm thấy choáng ngợp trước sự lộng lẫy hào nhoáng nơi đây. Cả gian phòng được lát đá trắng nhập khẩu từ Italia, trải thảm đỏ ở lối đi giữa tạo cảm giác sang trọng quý phái như cung điện hoàng gia Anh. Phía trần và xung quanh tường được trang hoàng với hệ thống đèn chùm nhỏ mà đồng hay mạ vàng theo hơi hướng cổ điển vintage trông rất quý phái. Tiếp đến là phòng khán giả nơi diễn ra những hoạt động biểu diễn nghệ thuật cho khán giả hiện nay. Không gian nơi đây được thiết kế tinh tế với một sân khấu ở chính giữa và khán đài được thiết kế theo hình vòng cung được lấy cảm hứng từ đấu trường La Mã ôm lấy sân khấu giúp cho tầm nhìn khán giả không bị che lấp và chất lượng âm thanh có thể truyền tải tốt nhất. Với 598 ghế ngồi được phân bố hợp lý cho 3 tầng tạo nên không gian thưởng thức thoải mái nhất. Cuối cùng là phòng gương, nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng hay đón tiếp các nhân vật cấp cao…Không gian nơi đây ngập tràn vẻ cổ điển từ thiết kế kết hợp nhiều ô cửa lớn kết hợp kỹ thuật Mozaic, cho đến những cây đèn treo, đèn trùm được mạ vàng hoặc đồng… tất cả đều toát lên vẻ sang trọng, lộng lẫy. Ngoài ra, bên trong nhà hát lớn Hà Nội còn được bố trí một vài công trình phụ khác như: phòng quản trị, 18 phòng hóa trang, 2 phòng luyện thanh, thư viện và phòng họp. Khi đến với nhà hát, du khách có thể ghé mua vài món đồ lưu niệm nhỏ tại phòng trưng bày và bán đồ lưu niệm. Mới đây, nhà hát lớn Hà Nội chính thức công bố mở cửa cho du khách tham quan với mức phí 400.000đ/người, học sinh được giảm một nửa. Ngoài ra, bạn có thể mua vé chương trình tại nhà hát với mức giá từ 300.000đ – 1.000.00đ/người và tranh thủ đi thăm quan một vài công trình kiến trúc đẹp nơi đây.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
4691 lượt xem
Chùa Trấn Quốc ban đầu có tên là chùa Khai Quốc, xây dựng vào năm 541 thuộc thời Tiền Lý. Lúc đó, chùa nằm gần bờ sông Hồng bởi vậy khi đê sạt lở vào năm 1615 (đời vua Lê Trung Hưng), chùa được di dời vào phía trong đê Yên Phụ khu gò đất Kim Ngưu. Sau đó, trong khoảng thế kỉ 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (nay là đường Thanh Niên) để nối với đảo Kim Ngưu. Chùa đổi tên thành chùa Trấn Quốc vào đời vua Lê Hy Tông (1681 – 1705) với ý nghĩa mong muốn đây sẽ là nơi giúp dân xua đi thiên tai, đem lại cuộc sống bình yên cho toàn dân. Và cái tên đó được sử dụng cho tới tận ngày nay. Xưa kia, chùa Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Các vua Lý, Trần vẫn thường hay vãn cảnh và ngự giá cúng lễ vào các dịp lễ, Tết tại chùa bởi vậy mà có nhiều cung điện đã được xây dựng phục vụ việc nghỉ ngơi của vua: cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên. Chùa tọa lạc trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, nép mình trầm mặc trên con đường Thanh Niên tấp nập. Là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ lâu, chùa Trấn Quốc đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, diện mạo có phần thay đổi, quy mô và kiến trúc của chùa hiện giờ là kết quả của một đợt trùng tu lớn năm 1815. Tổng diện tích chùa khoảng hơn 3000m2, bao gồm vườn tháp, nhà tổ và thượng điện. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông với kết cấu và kiến trúc theo nguyên tắc khắt khe của Phật Giáo gồm 3 ngôi chính: Tiền đường, nhà thiêu hương và Thượng điện nối với nhau thành hình chữ Công (工). Nhà Tiền đường có hướng về phía Tây, phía sau có nhà Tam bảo. Hai dãy hành lang nằm hai bên nhà thiêu hương và Thượng điện. Phía sau Thượng điện là gác chuông nằm trên trục sảnh đường chính với kiến trúc ba gian có mái chồng diêm. Nhà tổ nằm bên trái Thượng điện và bên trái là nhà bia hiện còn lưu giữ 14 tấm bia mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa. Năm 1998, ngôi Bảo Tháp lục độ đài sen được xây dựng, đến năm 2003 thì hoàn thành tạo thành khu vườn tháp của chùa. Ngôi Bảo Tháp cao 15m, gồm 11 tầng. Ở mỗi tầng tháp có đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý màu trắng trong mỗi ô cửa hình vòm. Đặc biệt, trên đỉnh có một tháp sen 9 tầng (Cửu phẩm liên hoa) được tạc bằng đá quý, tạo nên vẻ đẹp uy nghi, linh thiêng nhưng lại rất mềm mại. Bảo Tháp được dựng đối xứng với cây bồ đề do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 trong chuyến đến thăm thủ đô Hà Nội của ông. Cây bồ đề này được chiết từ cây đại bồ Đạo Tràng – nơi mà Đức Phật Thích Ca ngồi hành đạo cách đây hơn 25 thế kỷ. Hiện nay, chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng Phật và Bồ Tát có giá trị lớn được đặt chủ yếu ở Thượng điện. Trong đó nổi bật nhất là bức tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn được làm từ gỗ, sơn son thiếp vàng, là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam. Qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Trấn Quốc vẫn nằm đó uy nghi, mang nét yên bình mà cổ kính giữa lòng Hà Nội tấp nập. Hàng năm, chùa thu hút rất đông phật tử thập phương, du khách trong và ngoài nước đến dâng hương, lễ phật cũng như vãn cảnh chùa.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
4709 lượt xem
Là một trong những công trình kiến trúc Thiên Chúa giáo được xây dựng sớm nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử của nước nhà, thấm đẫm cuộc đời cũng như tâm hồn của nhiều người dân Hà thành. Khu đất xây dựng nhà thờ vốn là nơi chùa Báo Thiên tọa lạc, tồn tại từ thời Lý. Đến cuối thế kỷ 18, chùa Báo Thiên bị phá hủy và trở thành khu chợ nhỏ trước khi nhà thờ đầu tiên được xây dựng. Từ năm 1884 – 1888, Giáo hội công giáo tiến hành xây dựng nhà thờ bằng gạch trên nền móng nhà thờ tạm bằng gỗ ban đầu. Đây chính là nhà thờ lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội, được tôn phong là “ Nhà thờ chính tòa kính Thánh Giuse”. Nhà thờ được khánh vào lễ Giáng sinh năm 1887. Đến năm 1890, phố Nhà Chung được mở rộng và Nhà thờ lớn trở thành địa điểm trung tâm tấp nập người qua lại. Từ hồ Hoàn Kiếm men theo hướng phố Nhà Chung, du khách có thể dễ dàng tìm đường đến nhà thờ. Nổi bật giữa khu phố với quảng trường rộng lớn với tượng đài Đức mẹ bồng chúa hài đồng. Khách tham quan sẽ phải đi vào nhà thờ qua cổng bên. Được mệnh danh là nhà thờ lâu đời và có kiến trúc đẹp nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã được thiết kế công phủ, tinh xảo bởi bàn tay cũng những nghệ nhân tài hoa. Với phong cách thiết kế Châu Âu, Gothic, Nhà thờ lớn được xây dựng theo mô típ của công trình Nhà thờ Đức Bà Paris. Nhà thờ có chiều dài tầm 65m, chiều rộng 21m và 2 tháp chuông cao gần 32m được cố định bởi những trụ đá to lớn. Cây thánh giá được thiết kế tinh xảo bằng đá thu hút ánh nhìn của mọi người ngay từ lúc bước chân vào. Toàn bộ sàn gạch được tạo ra từ gạch đất nung, bốn bề bức trường trát bằng giấy bổi tạo nên không gian cổ kính, vô cùng đẹp mắt. Vì đã có tuổi đời từ trăm năm, bức tường nhà thờ bám phủ rêu phong tạo nên khung cảnh hoang sơ, kì bí. Các ô cửa chính và cửa đều mang hình vòm cuốn nhọn, đặc trưng phong cách Gothic. Mái vòm uốn cong rộng lớn hướng lên trên tạo ra một không gian cao vời vợi. Điểm nhấn ở giữa chính là cánh cửa sổ tròn hình hoa, tinh xảo. Với màu sắc trầm, chủ đạo theo phong cách Châu Âu, xen lẫn nhiều họa tiết mang hình ảnh Việt Nam, làm cho hai bên lối đi của nhà thờ hấp dẫn thu hút khách du lịch ngắm nghía, chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo. Nhà thờ được chia làm 3 gian: sảnh đón tiếp – nơi dành cho ca đoàn và các nhạc công, khu vực hành lễ và cung thánh cử hành nghi lễ. Ngay trong thánh đường ẩn chứa 3 ngôi mộ của Hồng y Trịnh Như Khuê, Hồng y Phạm Đình Tụng và Hồng ý Trịnh Văn Căn. Ở giữa là tượng Đức Mẹ, bao trùm lên toàn bộ khung cảnh nhà thờ, tạo nên cảm giác ấm áp lạ thường, như người mẹ đang dang trọn vòng tay ôm ấp những đứa con thơ. Nhà thờ thường có 2 thánh lễ vào ngày thường và 7 thánh lễ vào chủ nhật. Ngày 19 tháng 3 hằng năm, nơi đây sẽ tổ chức lễ rước thánh Quan thầy của Tổng giáo phận Hà Nội. Trong những hôm hành lễ, người dân thường nghe tiếng nhạc vang lên cùng những bài cầu kinh trong Nhà thờ lớn. Đây cũng là nơi diễn ra các buổi xá tội dành cho giáo đoàn. Như những nhà thờ khác, lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh là 2 lễ lớn nhất ở nhà thờ, thường tổ chức những buổi hành lễ linh đình, tấp nập người công giáo đến cử hành buổi lễ. Không chỉ là địa điểm tôn giáo nổi tiếng của thủ đô, Nhà thờ lớn Hà Nội còn là điểm đến thu hút rất đông các bạn trẻ và du khách tới tham quan, chụp ảnh. Đặc biệt vào dịp Noel là lúc Nhà thờ lớn được trang hoàng lộng lẫy nhất với những cây thông được trang trí cầu kì và ánh đèn lung linh đa màu sắc. Tuy nhiên bạn sẽ cần phải tới từ sớm bởi chỉ chập choạng tối là nơi đây đã đông nghẹt người. Nhắc đến nhà thờ Lớn thì dĩ nhiên không thể không kể tới “đặc sản” “trà chanh chém gió” ở đây. Những cốc trà thoảng hương hoa nhài, điểm thêm một vài lát chanh tươi với vị chua, ngọt, chan chát đã trở thành thức uống quen thuộc với không ít người Hà Nội. Chỉ cần một chiếc ghế nhựa bên vỉa hè, nhấp ngụm trà, trò chuyện với bạn bè hay nhìn ngắm dòng xe cộ qua lại. Có lẽ từ những điều giản dị như vậy mà trà chanh Nhà thờ luôn giữ được cái thú vị rất riêng của người Hà Nội. Ngoài ra sẽ thật là thiếu sót nếu như đến Nhà thờ lớn Hà Nội mà không thưởng thức hết những món ăn ở đây. Từ các món Á, Âu cho tới những món ăn vặt Hà Nội như nem nướng, bánh gối, cháo quẩy… tất cả đều sẽ được tìm thấy chỉ trong vài bước chân quanh Nhà thờ Lớn.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
7643 lượt xem
Văn Miếu nằm ở khu vực quận Đống Đa, Hà Nội, ngay giữa 4 phố chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Du lịch đến với Hà Nội ngàn năm văn hiến thì đây chắc chắn là địa điểm mà bạn nên ghé thăm. Nếu xuất phát từ Hồ Gươm, các bạn đi theo đường Lê Thái Tổ, rẽ phải vào đường Tràng Thi, đi về phía đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến rồi rẽ trái vào đường Văn Miếu là đến. Vì đường Hà Nội có rất nhiều đường một chiều, đặc biệt là xung quanh khu Văn Miếu nên các bạn nhớ để ý để tránh phạm luật giao thông. Văn Miếu được xây dựng năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh là trường đại học dành riêng cho con vua và các gia đình quý tộc. Đến thời vua Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện và thu nhận cả con cái nhà thường dân có sức học xuất sắc. Sang thời hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ. Tới thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập Huế. Văn miếu Thăng Long được sửa sang lại chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện tại nằm trong khuôn viên rộng 54331 m2, bao gồm nhiều công trình kiến trúc nhỏ khác nhau. Bao bọc khuôn viên là những bức gạch vồ. Trải qua nhiều tu sửa, quần thể di tích này bao gồm Hồ Văn, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, bia tiến sĩ, Đại Thành môn, nhà Thái Học. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn miếu thờ Khổng Tử ở Trung Quốc, tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc. Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau. Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau. Khu thứ nhất. Bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai. Từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ. Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Khu thứ ba. Gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia của các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích. Khu thứ tư. Là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Đây là khu vực thờ Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Khu thứ năm. Đây là khu nhà Thái Học. Thời Nguyễn trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội bị bãi bỏ, nhà thái học bị đổi làm nhà Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử. Tuy nhiên khu nhà này đã bị phá hủy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Trong khu thứ năm này còn có nhà Tiền đường – Hậu Đường, là nơi thờ các vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Những lưu ý khi thăm quan Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đầu tiên, Tôn trọng di tích, chấp hành quy định của đơn vị quản lý di tích. Không xâm hại đến các hiện vật, cảnh quan di tích. Không xoa đầu rùa, viết, vẽ, đứng, ngồi lên bia Tiến sĩ… Thứ hai, Trang phục khi tới Văn Miếu nên sạch sẽ, gọn gàng. Không nên mặc váy hoặc quần quá ngắn, trang phục hở hang hay trang phục trong nhà. Không hút thuốc, đội nón, đội mũ trong khu vực Điện thờ, nhà trưng bày… Cuối cùng, Thực hiện nếp sống văn minh nơi thờ tự: Không có hành vi thiếu văn hóa, nói tục, gây mất trật tự an ninh; Có thái độ đúng mực khi hành lễ, mỗi người chỉ thắp một nén hương; Dâng lễ, thắp hương đúng nơi quy định.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
7336 lượt xem
Nhắc đến lịch sử của Hà Nội 36 phố phường hay phố cổ Hà Nội, có lẽ phải ngược lại khoảng thời gian từ thời Lý – Trần, khi khu dân cư sinh hoạt buôn bán này bắt đầu hình thành, dân cư từ khắp các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập lại và trở thành khu vực sầm uất nhất kinh thành thời ấy. Không những vậy, khu đô thị này còn tập trung nhiều hoạt động tiểu thủ công nghiệp, buôn bán giao thương để mà từ đó hình thành nên cái tên “Hàng”, cách gọi ám chỉ những phố nghề đặc trưng, mang đậm nét truyền thống. Trải qua bao thăng trầm của đất thủ đô, khu phố ấy vẫn đi cùng năm tháng, trường tồn cho đến tận bây giờ, bảo tồn và gìn giữ để trở thành phố cổ Hà Nội trong lòng bao người con đất Việt. Về mặt diện tích, theo quy định của Bộ Xây dựng, phạm vi chính thức của khu phố cổ Hà Nội được xác định như sau: phía Bắc là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; ở phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; còn phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật. Hà Nội 36 phố phường, cái tên đã đi vào tiềm thức của nhiều người với những nét giản dị mộc mạc nhất từ những cái tên như Hàng Mắm, Hàng Nón, Hàng Đường, Hàng Muối… đại diện cho mặt hàng chủ yếu được cái tiểu thương nơi đây trao đổi buôn bán. Phố cổ mang trong mình một nét rất riêng về đô thị, nơi phồn hoa đông đúc, lúc nào cũng tấp nập người nhưng lại vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống từ ngàn đời xưa của đất kinh kì. Mỗi con phố đều tập trung những người thợ từ các làng nghề có tiếng quanh kinh thành Thăng Long xưa, biến mỗi con phố nơi đây thành một làng nghề thu nhỏ giữa lòng Hà Nội. Kiến trúc lại là một nét đặc sắc khác làm nên chất riêng của phố cổ, với lối cấu trúc nhà ống, mái ngói nghiêng cùng mặt tiền là các cửa hiệu chuyên để kinh doanh buôn bán, được xây dựng chủ yếu từ những ngày thế kỉ 18, 19. Những ngôi nhà thoạt nhìn thì lụp xụp nhỏ bé, nhưng lại được con người sắp xếp vô cùng khéo léo mà hợp lý, vẫn phục vụ đầy đủ được nhu cầu đời sống của người dân nơi đây. Phố cổ Hà Nội đẹp với những hàng quán nhỏ ven đường, dù không phải nhà hàng sang trọng nhưng hương vị lại đậm đà níu chân người lữ khách, có đi rồi cũng mãi không quên. Là một buổi ngồi bên hồ Gươm hóng gió, ăn que kem Thủy Tạ, nhìn dòng người qua lại, hay lên phố mà không thưởng thức kem Tràng Tiền thì quả là điều thiếu sót. Hà Nội cũ với những gánh hàng rong chập chùng, len lỏi qua từng con phố với những món ăn bình dị mà dân dã như bánh rán, trứng vịt lộn, hay chỉ đơn giản là cốm, món quà quê nức lòng người con Tràng An có thể làm say lòng bất kì thực khách khó tính nào. Ẩm thực phố cổ gắn liền với những món ăn truyền thống như bún chả, phở, bún cá, bún đậu mắm tôm, bún ốc, bún thang,…của quán nhỏ ven đường, hay trong những căn nhà cổ đã có đến hàng chục năm tuổi. “Hà Nội 36 phố phường” không chỉ nổi tiếng là nơi ăn chơi bậc nhất Hà Thành, mà còn lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, văn hóa của hơn một ngàn năm văn hiến. Bạn nhất định không được bỏ qua điểm đến này khi về thăm Hà Nội nhé.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
7317 lượt xem
Hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm thủ đô, được bao quanh bởi 3 con phố Hàng Khay – Lê Thái Tổ – Đinh Tiên Hoàng. Trước đây hồ còn có một số tên gọi khác như hồ Lục Thủy (hồ nước xanh) hay hồ Thủy Quân (bởi hồ từng là nơi để huấn luyện thủy binh chiến đấu). Đến thế kỉ thứ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gắn liền với sự tích trả gươm báu cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ. Hồ Hoàn Kiếm là nơi tụ hội, điểm hẹn lý tưởng bốn mùa: Rực rỡ trong sắc đào và các lễ hội truyền thống vào mùa xuân; lồng lộng những cơn gió xua tan đi cái nóng oi bức của mùa hè; say đắm với những cành liễu rủ trong màn sương huyền ảo của mùa thu; lộng lẫy trong cơn mưa lá vàng và những giọt mưa phùn lất phất bay của mùa đông. Không chỉ là thắng cảnh đẹp mà du khách không thể bỏ qua trong danh sách những địa điểm du lịch Hà Nội mà đây còn là nơi gắn liền với truyền thống lịch sử tâm linh của thủ đô. Hồ Hoàn Kiếm có hai đảo nổi: Đảo Ngọc nằm ở phía bắc hồ, có cầu Thê Húc uốn cong bắc ngang nối ra đảo. Giữa hồ là đảo Rùa nhỏ hơn, bên trên là ngọn tháp Rùa cổ kính trăm tuổi trầm mặc giữa bốn bề long lanh sóng nước. Vào 3 ngày cuối tuần các đường phố xung quanh hồ Hoàn Kiếm sẽ trở thành phố đi bộ với nhiều hoạt động hấp dẫn như âm nhạc đường phố, các trò chơi dân gian…. thu hút rất đông du khách. Nằm trên đảo Ngọc, đền Ngọc Sơn không chỉ là di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội mà còn là nơi thờ thần Văn Xương, ngôi sao chủ về văn chương khoa cử và Đức thánh Trần Hưng Đạo. Xung quanh đền là quần thể di tích kiến trúc mang nhiều giá trị lịch sử và ý nghĩa nhân văn gồm cầu Thê Húc, tháp Bút, đài Nghiên, đình Trấn Ba. Sự kết hợp giữa quần thể đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo nên một tổng thể kiến trúc cổ kính hài hòa, đăng đối giữa con người và thiên nhiên. Ở cạnh Hồ Gươm là các phố cổ như Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường,… nơi du khách có thể tham quan, khám phá cuộc sống, văn hóa và con người cũng như nét ẩm thực độc đáo của Hà Nội. Tượng đài Lý Thái Tổ được đặt tại vườn hoa Chí Linh trên đường Đinh Tiên Hoàng. Đây là công trình kiến trúc văn hóa tiêu biểu ở hồ Hoàn Kiếm nhằm tôn vinh vị vua đã có công khai sáng kinh thành Thăng Long. Nằm bên bờ hồ, tháp Hòa Phong là di tích cổ còn sót lại của chùa Báo Ân sau khi đã bị người Pháp phá hủy để lấy đất xây bưu điện. Xung quanh hồ có hằng hà sa số món đồ mà các bạn có thể mua về để làm quà cho bạn bè cũng như người thân chẳng hạn như đồ thủ công, những món quà nhỏ xinh xắn, quần áo, giày dép, các món đặc sản ở Hà Nội như bánh cốm, ô mai… Phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Đường, chợ Đồng Xuân… là một số địa chỉ uy tín và chất lượng để các bạn thỏa sức mua sắm. Theo kinh nghiệm của nhiều người thì các bạn nên đi mua sắm vào buổi chiều vì các cửa hàng ở đây rất kiêng việc khách hàng đến vào buổi sáng để hỏi đồ nhưng lại không mua gì.
Hà Nội
Từ tháng 1 đến tháng 12
7184 lượt xem
Quảng trường Ba Đình nằm ngay ở trung tâm thủ đô Hà Nội tại số 2 Hùng Vương, Điện Bàn, quận Ba Đình. Quảng trường Ba Đình chính là nơi mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Quảng trường mở cửa cho du khách vào tham quan từ 5 giờ đến 22 giờ mỗi ngày. Tổng thể quảng trường có chiều chiều dài dài khoảng 320 mét và chiều rộng khoảng 100 mét với 210 ô cỏ. Ở trung tâm quảng trường có một cột cờ với chiều cao 25 mét. Xung quanh Quảng trường Ba Đình có nhiều công trình quan trọng như: Lăng Bác, bảo tàng Hồ Chí Minh, phủ Chủ tịch, chùa một cột, khu nhà sàn và ao cá Bác Hồ. Thời điểm lý tưởng để ghé thăm Quảng trường Ba Đình, Hà Nội là từ tháng 9 đến tháng 3 hàng năm. Trong những tháng này, thời tiết ở Hà Nội khá mát mẻ và không quá oi bức. Điều này giúp cho các hoạt động tham quan và khám phá Quảng trường Ba Đình cũng như các địa điểm khác ở thủ đô thêm thuận lợi. Bên cạnh đó, vào những tháng cuối năm quang cảnh Hà Nội vô cùng thơ mộng. Khi du lịch Quảng trường Ba Đình bạn sẽ được nhìn ngắm thêm những loài hoa đặc trưng. Sự chuyển biến từ mùa thu sang đông rồi đến mùa xuân mang đến một vẻ đẹp rất riêng của đất thủ đô. Khi đã đến Quảng trường Ba Đình, bạn đừng quên chụp những bức ảnh để làm kỷ niệm. Dù là thời điểm nào thì khung cảnh rộng lớn nơi đây cũng sẽ mang đến những khung hình đẹp mắt. Nếu đi vào buổi sáng hoặc buổi chiều thì sẽ có được ánh sáng tự nhiên. Còn nếu đến Quảng trường Ba Đình buổi tối bạn có thể tận dụng ánh sáng từ các cột đèn chiếu sáng để giúp bức ảnh thêm đẹp mắt. Lăng Hồ Chủ Tịch chính là một trong những view chụp ảnh được rất nhiều du khách yêu thích khi đến đây. Ngoài ra, bạn cũng có thể dễ dàng tìm được những góc chụp đẹp khác. Nên sử dụng những thiết bị có ống kính góc rộng để có thể bắt trọn được vẻ đẹp toàn cảnh của quảng trường. Nằm ngay phía sau Quảng trường Ba Đình, lăng Hồ Chủ Tịch là nơi bạn nên ghé thăm. Lăng mở cửa từ các ngày trong tuần trừ thứ hai và thứ sáu. Thời điểm mở cửa trong ngày sẽ có sự khác biệt giữa từng thời điểm trong năm. Công dân Việt Nam khi vào lăng sẽ không mất phí, riêng đối với khách du lịch nước ngoài thì sẽ là 25.000 VND một lượt. Tổng thể kiến trúc của lăng Hồ Chủ Tịch được xây dựng theo hình khối vuông với 3 lớp, cao 21,6 mét và rộng 41,2 mét. Với kết cấu vững chắc, lăng Hồ chủ tịch có khả năng chống chịu được bom đạn, lũ lụt và động đất. Phía bên ngoài lăng có hàng cột được ốp đá và dòng chữ “CHỦ TỊCH HỒ - CHÍ - MINH” màu đỏ nổi bậc. Phủ chủ tịch là nơi mà Bác Hồ từng ở sinh hoạt, làm việc và diễn ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử. Được xây dựng theo lối kiến trúc tân cổ điển của Pháp vào năm 1902, phủ chủ tịch có tất cả 30 phòng với thiết kế đối xứng. Bên cạnh những họa tiết, trang trí độc đáo, màu sơn vàng cũng là một yếu tố để giúp cho phủ chủ tịch thêm phần nổi bậc. Trong khuôn viên phủ chủ tịch Hà Nội có rất nhiều khoảng xanh. Đi dưới những tán cây, du khách có được cảm giác thanh bình giữa trung tâm thủ đô sôi động. Nội thất bên trong phủ chủ tịch được giữ gìn gần như nguyên vẹn từ khi Bác Hồ còn sử dụng cho đến nay. Chủ yếu là những món đồ gỗ đơn giản. Tương tự như lăng Bác, phủ chủ tịch cũng không nhận khách tham quan vào thứ hai và thứ sáu. Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng từ năm 1990, đây sẽ là một điểm tham quan hết sức thú vị trong hành trình du lịch Quảng trường Ba Đình của bạn. Đến với bảo tàng, bạn sẽ được tìm hiểu về đời sống và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là nơi lưu giữ nơi lưu giữ những tài liệu, hình ảnh bức tượng và vật dụng lịch sử liên quan đến cuộc đời của Bác. Khám phá bảo tàng Hồ Chí Minh du khách không chỉ được tìm hiểu về một nhân vật lịch sử vĩ đại của đất nước, mà còn được tham quan và khám phá một công trình kiến trúc đặc biệt với những khu triển lãm trưng bày đầy sáng tạo, sinh động.
Hà Nội
tháng 9 đến tháng 3
9111 lượt xem
Đền Bà Chúa Thác Bờ thuộc xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Đền thờ lâu đời này nằm bên bờ hồ rộng lớn quanh năm một màu xanh ngọc phẳng lặng. Phía sau đền là hệ thống núi cùng các hang động thạch nhũ tuyệt đẹp làm nức lòng du khách. Năm 2009, Động Thác Bờ trong cụm di tích đã được Bộ Văn Hóa - Thông Tin và Du Lịch công nhận là Di tích Danh thắng Quốc Gia. Tương truyền, Đền Bà Chúa Thác Bờ thờ hai vị nữ tướng là bà Đinh Thị Vân người dân tộc Mường và một bà (không rõ tên) người dân tộc Dao. Hai bà đã có công dưới thời Lê Lợi, giúp dân và quân vận chuyển lương thực, thuyền bè qua Thác Bờ lên Mường Lễ dẹp loạn. Sau khi hai bà mất, thường hiển linh giúp người dân an toàn vượt qua con thác nổi tiếng hiểm trở, khắc nghiệt khi sông Đà chưa ngăn dòng ngày ấy. Nhân dân biết ơn lập đền thờ hai bà nhằm tỏ lòng thành kính và mong muốn hai bà sẽ phù hộ, che chở cho họ khỏi nguy hiểm khi đi qua dòng nước. Bạn nên đến đền vào khoảng thời gian từ 7/1 đến hết tháng 3 (âm lịch) bởi đây là thời điểm có nhiều lễ hội náo nhiệt nhất. Đền Bà Chúa Thác Bờ sở hữu hệ thống 38 pho tượng, trong đó có 2 pho tượng đồng thờ hai bà . Đền thờ có tượng lớn nằm ở trong hang động quanh năm khô ráo, mát mẻ. Xung quanh hang là những cột thạch nhũ lung linh, huyền ảo trong ánh điện lờ mờ càng tạo nên vẻ linh thiêng, cuốn hút của động thờ. Du khách muốn dâng hương trước hết đến Đền Trình rồi sau đó lên Đền Chúa. Tuy nhiên, hai khu đền này lại nằm ở hai “hòn đảo” khác nhau nên du khách buộc phải đi thuyền khoảng 20 phút để đến nơi. Đặt chân lên đền lại là thử thách hơn 100 bậc thang để lên đến chốn thờ cúng. Điểm đặc biệt tại Đền Bà Chúa Thác Bờ là lưng tựa vào núi và mặt hướng ra hồ nước bao la, bát ngát một màu xanh ngọc bích. Chính cảnh đẹp này đã thu hút rất nhiều du khách tìm đến đền để dâng hương và vãn cảnh. Sau khi dâng hương xong, bạn có thể di chuyển ra những địa điểm gần đó thuộc Thung Nai để thưởng thức các món ngon của Hòa Bình. Các loại thực phẩm đều đảm bảo của “nhà trồng” nên vô cùng tươi ngon và mang đậm dấu ấn đặc sản riêng biệt. Một số món ăn không thể bỏ qua bao gồm cá sông Đà, thịt lợn Mường, rau đồ, rượu men lá,...
Phú Thọ
Từ tháng 1 đến tháng 12
4512 lượt xem
Sở hữu diện tích rộng rãi lên đến 350 ha, Thác Thăng Thiên là một phận của dãy Viên Nam, cách trung tâm Hà Nội khoảng tầm 60km. Đường đi đến Thác Thăng Thiên khá dễ, lộ trình lại ngắn cùng cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, vì vậy, không quá ngạc nhiên khi nơi đây nhanh chóng trở thành điểm tham quan, dã ngoại được nhiều người yêu thích. Nếu có ý định đến Thác Thăng Thiên, bạn có thể đi bằng xe khách hoặc xe máy đều được. Nếu đi bằng xe máy, đừng quên lưu lại lộ trình MIA.vn tiết lộ ngay sau dây nha: Đại lộ Thăng Long - Cao tốc Hòa Lạc Hòa Bình - ĐT446 - đường 6 (AH13) - Quốc lộ 6. Từ đây, đi thêm một đoạn ngắn nữa là bạn sẽ đến được Thác Thăng Thiên. Nhiều bạn từng đến đây đã chia sẻ rằng, thời điểm lý tưởng nhất để bạn bắt đầu hành trình thưởng ngoạn, khám phá Thác Thăng Thiên rơi vào khoảng tháng 5 đến tháng 7. Lúc này là mùa hè, trời trong, không mưa, phù hợp để bạn tham gia các hoạt động vui chơi,dã ngoại ngoài trời. Rời xa chốn thị thành náo nhiệt, hành trình về với Thác Thăng Thiên sẽ xoa dịu, vỗ về tâm hồn bạn. Khung cảnh tại Thác Thăng Thiên rất đẹp với con nước tuôn đổ ào ạt từ trên cao tung bọt trắng xóa. Giữa làn sương mờ, không gian tại thác dường như thêm phần lãng mạn hơn. Thác Thăng Thiên được chia thành nhiều tầng thú vị, với mỗi tầng đều được làn nước che phủ tạo cảm giác huyền bí. Càng lên tầng cao hơn, đường lại khá trơn trượt, thế nên nếu có ý định lên đến đỉnh, bạn nên di chuyển thật chậm để đảm bảo an toàn. Ngay bên dưới chân thác là lòng hồ quanh năm đầy nước mát lành. Nước trong hồ trong veo, lại không quá sâu nên phù hợp để bạn bơi lội. Xung quanh hồ là những hòn đá muôn hình vạn trạng, rất phù hợp dành cho ai muốn có bức ảnh check-in trong hành trình du lịch Hòa Bình. Ẩn mình sâu giữa lòng rừng già, thế nên, ẩm thực tại Thác Thăng Thiên chủ yếu là những món sản vật của chốn non cao. Sau hành trình vi vu tắm mát, thưởng ngoạn phong cảnh, bạn có thể nạp lại năng lượng với hàng loạt món ăn nổi bật, ví như rau rừng, cơm lam, thịt trâu nấu lá nồm, chả cuốn lá bưởi, thịt lợn mạn, cá nướng, cá suối chiên giòn, v.v.
Phú Thọ
Từ tháng 1 đến tháng 12
4564 lượt xem
Cách xa nhịp sống ồn ào của thành phố, Mai Châu nổi tiếng với khung cảnh thiên nhiên hoang sơ và thanh bình. Nằm trong lòng vùng núi Tây Bắc, nơi đây chính là một bức tranh tuyệt đẹp về sắc màu thiên nhiên lẫn những nét văn hóa độc đáo của dân tộc. Mai Châu có những con đường mòn uốn lượn qua những cánh rừng xanh, những thửa ruộng bậc thang ngả vàng, hay những ngôi nhà gỗ truyền thống thấp thoáng giữa không gian hùng vĩ. Không chỉ là một vùng đất thiên nhiên tuyệt đẹp, Mai Châu còn là bảo tàng văn hóa phong phú của dân tộc Thái. Nơi đây, những nét văn hóa truyền thống vẫn được bảo tồn và chăm sóc kỹ lưỡng, từ những bức tranh vải tay mềm mại đến những món đồ gỗ điêu khắc tinh xảo. Nghệ thuật truyền khẩu của dân tộc Thái vốn đã và đang trở thành niềm tự hào của cả đất nước Việt Nam. Mai Châu là một huyện thuộc tỉnh Hòa Bình, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150km về phía Tây Bắc. Với vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ và nét văn hóa đặc trưng của dân tộc bản địa, đây là một điểm đến hấp dẫn cho những du khách yêu thích khám phá và trải nghiệm bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như tận hưởng bầu không khí thanh bình, tĩnh lặng của miền núi Việt Nam. Từ tháng 10 đến tháng 2 là một trong những thời điểm đẹp nhất để du lịch Mai Châu. Đây là thời điểm không khí trở nên se lạnh, hoa đào và hoa mận nở rộ. Cảnh sắc huyền ảo của những cánh hoa trắng làm cho vùng đất trở nên thơ mộng. Chắc chắn bạn sẽ bị cuốn hút vào vẻ đẹp tự nhiên bình yên của Mai Châu vào mùa này. Hơn thế nữa, nếu bạn là người yêu thích không gian lãng mạn, hay luôn muốn hòa mình vào bầu không khí se se lạnh thì mùa đông là thời điểm tuyệt vời để đến Mai Châu và tận hưởng những khoảnh khắc đáng nhớ. Từ tháng 3 đến tháng 4 cũng là mùa đẹp để đến Mai Châu. Ở thời điểm này, hoa ban nở rộ trên khắp vùng đất Mai Châu. Bên cạnh đó, thời tiết trong khoảng thời gian này thường mát mẻ và dễ chịu, rất thuận lợi cho việc tham gia các hoạt động ngoài trời như trekking hay thưởng thức cảnh quan đẹp của vùng Tây Bắc. Nếu bạn muốn trải nghiệm sự tươi mới và rạng rỡ của mùa xuân, cùng với hương thơm dịu nhẹ của hoa ban nở rộ thì tháng 3 và tháng 4 là thời điểm lý tưởng để đến thăm Mai Châu và tận hưởng những cảnh quan độc đáo của mùa này.
Phú Thọ
Từ tháng 10 đến tháng 2
4483 lượt xem
Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Với sự kết hợp hoàn hảo của núi, đảo và hồ nước trong xanh, Thung Nai mang đến vẻ đẹp thơ mộng và những phút giây thư thái. Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Cái tên Thung Nai khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt tên cho vùng đất này. Ngày nay đến với Thung Nai tuy không còn những chú nai rừng nhưng vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của núi non, sông nước nơi đây dường như vẫn vẹn nguyên. Để khám phá “thung lũng nai vàng” này chỉ có thể dùng thuyền hoặc đi bộ. Gửi lại xe bên bờ, chiếc thuyền máy sẽ đưa du khách dạo một vòng trên lòng hồ thủy điện. Trong cái gió lồng lộng thổi từ mặt hồ, khung cảnh Thung Nai đẹp như tranh vẽ hiện ra trước mắt. Một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt. Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc. Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung Nai. Thung Nai trong nhiều năm gần đây là điểm đến quen thuộc mỗi dịp cuối tuần của những người yêu thích bình yên, tránh ồn ào, khói bụi. Là một xã thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, Thung Nai nằm trong lòng hồ sông Đà, cách trung tâm thành phố 25 km và Hà Nội khoảng 110 km. Cái tên Thung Nai khiến nhiều người liên tưởng đến một thung lũng với những chú nai nhởn nhơ gặm bỏ. Theo người dân địa phương kể lại, nơi đây xưa kia từng là nơi sinh sống của nhiều loài nai rừng. Hình ảnh thơ mộng của những chú nai vàng ngơ ngác trong ánh nắng chiều trên những triền dốc, soi bóng xuống dòng sông Đà được người dân dùng để đặt tên cho vùng đất này. Ngày nay đến với Thung Nai tuy không còn những chú nai rừng nhưng vẻ đẹp nên thơ, lãng mạn của núi non, sông nước nơi đây dường như vẫn vẹn nguyên. Để khám phá “thung lũng nai vàng” này chỉ có thể dùng thuyền hoặc đi bộ. Gửi lại xe bên bờ, chiếc thuyền máy sẽ đưa du khách dạo một vòng trên lòng hồ thủy điện. Trong cái gió lồng lộng thổi từ mặt hồ, khung cảnh Thung Nai đẹp như tranh vẽ hiện ra trước mắt. Một hồ nước rộng được bao bọc bởi những dãy núi trùng trùng điệp điệp. Trong lòng hồ, hàng trăm “hòn đảo” lớn nhỏ nhấp nhô tựa những kiệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Lênh đênh trên mặt nước, chiếc thuyền máy luồn lách qua những núi đá nhô lên, tạo cảm giác như đang thưởng ngoạn “Hạ Long trên cạn”. Là sự kết hợp hoàn hảo của sông hồ và đá núi, động Thác Bờ là điểm đến không thể bỏ qua khi đến Thung Nai. Động nằm sâu trong lòng núi và khá hoang sơ, nhưng phong cảnh bên trong thì tuyệt mỹ. Cả rừng nhũ đá đua nhau mọc lên, vươn xuống, với những hình thù kỳ lạ. Sau mùa nước dâng, du khách vào động có thể thưởng ngoạn hàng đàn cá bơi lội tung tăng trong làn nước nông, trong vắt. Ngay gần động là đền Bà chúa Thác Bờ. Mặc dù đền khá nhỏ và nằm cheo leo trên dốc núi nhưng nơi đây thu hút rất đông du khách khắp nơi về chiêm bái. Với nhiều người dừng chân lại đền là dịp thưởng thức vẻ đẹp Thung Nai từ góc nhìn trên cao với mây trắng bồng bềnh, thấp thoáng ẩn hiện những bản người dân tộc. Một điều thú vị ở đây là khi nước sông Đà cạn, du khách lên đền phải leo lên những bậc đá dốc ngược, đôi lúc bị chùn chân. Nhưng vào mùa nước lên, dâng ngập bậc, du khách ghé đền chỉ việc bước từ thuyền xuống. Nếu đi vào chủ nhật, bạn đừng quên ghé chợ nổi Thác Bờ. Không quá ồn ã tấp nập nhưng là nét văn hóa rất đặc trưng của người Mường ở Thung Nai. Theo con thuyền chậm chậm rẽ nước, chiếc cối xay gió sừng sững trên hòn đảo nhỏ thu hút ánh nhìn của bất kỳ ai qua lại. Đây giống như lời mời gọi của khu nhà nghỉ ở giữa hồ. Bởi thế, dù đi về trong ngày hay nghỉ lại qua đêm, thì phần lớn khách du lịch đến với Thung Nai đều muốn ghé lại khu đảo nhỏ này cho bằng được, để tận mắt chiêm ngưỡng chiếc cối xay gió tưởng chừng như chỉ có ở Hà Lan, hay trong tiểu thuyết “Don Kihote - nhà quý tộc tài ba xứ Manta” nổi tiếng. Không chỉ lạ mắt, cối xay gió ở đây còn sở hữu mộ điểm ngắm cảnh tuyệt đẹp. Từ đây, bạn có thể phóng tầm mắt mình ra xa, thu toàn bộ bức tranh thủy mặc Thung Nai vào trong tầm mắt. Nếu lên “cối” vào lúc sáng sớm, bạn sẽ thấy Thung Nai chìm trong làn sương mờ ảo, còn lúc nắng lên, mặt hồ trong xanh ánh lên màu vàng lấp lánh. Ngoài phong cảnh thiên nhiên hoang sơ, những bữa tiệc đặc sản của người Mường đã trở thành điểm nhấn ở Thung Nai. Đó là bữa cơm với cá suối, gà đồi và rau rừng lạ miệng.
Phú Thọ
Từ tháng 1 đến tháng 12
4150 lượt xem
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, trên dòng sông Đà thuộc miền Bắc Việt Nam. Trước khi nhà máy thủy điện Sơn La khánh thành thì đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á. Thủy điện Hòa Bình - công trình thế kỷ do Liên Xô giúp đỡ xây dựng năm 1979 tại TP Hoà Bình. Nơi những chuyên gia của Liên Xô cùng hàng vạn kỹ sư, công nhân trong đó có nhiều người là thầy trò xuất thân từ Khoa Công Trình - Trường đại học Thủy Lợi có những năm tháng không thể nào quên, với sự quyết tâm, khát khao cháy bỏng mong muốn làm nên những kỳ tích chinh phục dòng sông Đà. Trên công trường quy mô lớn nhất Đông Nam Á thời điểm đó, cao điểm có đến 4 vạn công nhân làm việc. Dù còn rất nhiều khó khăn, thiếu điện, thiếu nước, công việc vất vả, hiểm nguy, nhưng nhiệt huyết của tuổi trẻ lao động đã thúc giục những bàn tay, khối óc của các kỹ sư, công nhân biến dòng sông thành nguồn điện sáng. Mọi người không quản khó khăn, gian khổ, hăng say lao động tới 3 ca, 4 kíp, trắng đêm "vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc”. Những khẩu hiệu lao động giờ đây đã trở thành huyền thoại như "Cao độ 81 hay là chết” đã thể hiện tinh thần làm việc khẩn trương, hăng say, vượt khó của thế hệ trẻ trên công trường. Những nỗ lực, cố gắng vượt mọi thời gian, mọi địa hình hiểm trở của con người đã được đền đáp xứng đáng. Ngày 31/12/1988, tổ máy đầu tiên của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình phát điện lên hệ thống, báo hiệu một thời khắc lịch sử của đất nước và ngành Điện lực Việt Nam. Đến ngày 4/4/1994, tổ máy thứ 8 cũng là tổ máy cuối cùng của nhà máy chính thức hoàn thành, tổng công suất lắp đặt là 1.920 MW. Ngày 24/12/1994, đất nước ta phấn khởi chào mừng sự kiện trọng đại là ngày khánh thành NMTĐ Hòa Bình trên sông Đà, đánh dấu kết quả của 15 năm lao động quên mình vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc của hàng vạn cán bộ, công nhân viên và chuyên gia trên công trường lần đầu tiên thi công, xây dựng một công trình vĩ đại của thế kỷ XX. Sau hơn 30 năm vận hành, đến năm 2021, nhà máy đã cung cấp cho đất nước tổng sản lượng trên 250 tỷ kWh, hàng năm đóng góp vào ngân sách Nhà nước của tỉnh hơn 1.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, TĐHB tham gia tích cực và có hiệu quả trong việc chống lũ, bảo đảm an toàn cho đồng bằng Bắc Bộ và Thủ đô Hà Nội.Với hồ chứa dung tích lớn lên đến 10 tỷ mét khối nước, dung tích chống lũ ước đạt 5,6 tỉ mét khối, thủy điện Hòa Bình đã góp công lớn trong việc phòng chống lũ lụt, đảm bảo an toàn cho toàn bộ vùng Đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là Thủ đô Hà Nội. Từ khi đưa vào hoạt động nhà máy Thủy điện Hòa Bình đến nay, vùng Đồng bằng Bắc Bộ đã không còn xảy ra hiện tượng ngập lụt nữa. TĐHB đã chế ngự được hàng chục trận lũ lớn trên 10.000 m3/giây; điển hình là trận lũ lịch sử tháng 8/1996 có lưu lượng hơn 22.650 m3/giây; trận lũ muộn xuất hiện tháng 10/2017 (khi hồ chứa đã đầy) lưu lượng gần 16.000 m3/giây với những diễn biến rất phức tạp, khó lường. Đồng thời, giữ vững an toàn công trình và vùng hạ du đồng bằng Bắc Bộ.
Phú Thọ
Từ tháng 1 đến tháng 12
4918 lượt xem
Cửu thác Tú Sơn bao gồm 9 dòng thác, mỗi dòng thác lại sở hữu vẻ đẹp đặc trưng của riêng mình, vừa có nét riêng biệt vừa lại hòa quyện vào nhau tạo nên danh thắng tuyệt đẹp làm bao người ngất ngây, mê mẩn. Trong đó bao gồm thác tình Âu Cơ, thác Tiên Tắm, thác Trải Chiếu Quan Lang, thác nàng Út Lót, thác Bạc, thác Trượng Phu, tháng Thượng Ngàn, thác Mẫu và thác Thiên Ngọc Thạch. Cửu thác nằm trong khu bảo tồn thiên nhiên Kim Bôi, thuộc xóm Củ, xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình và cách trung tâm thủ đô Hà Nội tầm 60 km. Chính vì thế, đây là điểm hẹn lý tưởng để người dân Hà thành và các tỉnh lân cận được dịp rời xa phố thị xô bồ, lạc bước đến chốn thiên nhiên nguyên sơ trong những kỳ nghỉ lễ ngắn ngày hay những ngày nghỉ cuối tuần. Rảo bước trên con đường mòn quanh những dòng thác ấy, bạn sẽ ngỡ như đang thực hiện một chuyến trekking đầy thú vị trong khu rừng nguyên sinh với không gian thơ mộng và bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Đâu đó bạn còn bắt gặp một vài bông hoa dại khoe sắc thắm, vài chú sóc nhỏ trên những hàng cây xanh rì. Bạn sẽ còn lắng nghe tiếng thác chảy ầm ầm vang vọng, râm ran tiếng chim líu lo. Cảnh vật đẹp xinh sẽ khiến bạn hào hứng hơn, đoạn đường dài cũng chẳng còn mệt mỏi nữa. Tiếp tục hành trình lần lượt khám phá các thác nước khác nhau, bạn sẽ được bắt gặp những dòng thác đẹp mê hồn, ẩn chứa vẻ đẹp diệu kỳ của thiên nhiên. Các thác nước này đã tô điểm cho không gian hoang sơ thêm phần nên thơ, lung linh, hữu tình. Khung cảnh ấy không chỉ khiến bạn thêm hào hứng, rạo rực khám phá thiên nhiên, mà còn kết nối bạn và thiên nhiên, càng gắn kết và thân thuộc hơn nữa. Những buổi sớm mai, quang cảnh quanh những thác nước trở nên mờ ảo, huyền diệu biết mấy, cứ khiến những người lữ khách phương xa ngẩn ngơ chiêm ngưỡng. Khi mặt trời ló dạng ban phát những vạt nắng vàng ươm thì những sắc nước của những dòng thác lại phảng phất một sắc vàng nhè nhẹ, rồi đến chiều tà hoàng hôn buông xuống nó lại đổi thay sang sắc hồng lung linh. Có lẽ lúc thác nước đẹp nhất là những khi dải cầu vồng rực rỡ sắc màu bắc ngang qua những “dải lụa bạc”, tỏa rực cả một vùng trời. Thác Âu Cơ nằm ở thượng ngàn trên đỉnh Tú Sơn với độ cao khoảng 1300 m so với mực nước biển. Với dòng thác này, lữ khách phương xa sẽ ngỡ như được chiêm ngường dải lụa bạc óng ánh giữa đại ngàn, như mái tóc dài óng mượt của nàng thiếu nữ. Những bụi nước li ti lấp lánh rực sáng cả một góc rừng và thấp thoáng những hình ảnh mờ ảo, mơ màng sau những ngọn thác. Thác tình Âu Cơ đổ vào hồ Lạc Long Quân, cạnh đó còn khối đá tròn khổng lồ, gắn với truyền thuyết về chuyện tình muôn thuở giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân cùng 100 người con, chia nhau lên rừng, xuống biển. Nếu có dịp đặt chân lên vườn thượng uyển ở độ cao hơn 1.000 m trong cửu thác Tú Sơn, du khách còn được dịp có thể thỏa sức chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên hữu tình, thả hồn theo những ngọn gió vi vu. Khi ấy, bạn hẳn sẽ lâng lâng những cảm xúc tươi mới, dịu êm và cảm thấy bình yên ngay cả giữa chốn rừng núi hoang sơ. Du khách cũng có thể dừng chân, bước vào những căn chòi nhỏ nghỉ ngơi, thưởng thức bữa trưa và chợp mắt thư giãn trong ít phút để sẵn sàng cho chặng đường khám phá kế tiếp. Cứ như thế sẽ không quá khó để bạn chinh phục được 9 thác nước đẹp tuyệt của xứ Mường này đấy!
Phú Thọ
Từ tháng 1 đến tháng 12
4690 lượt xem
Lũng Vân nằm ở đỉnh cao nhất của xứ Mường Bi. Chính vì vậy mà nơi đây được mệnh danh là “nóc nhà xứ Mường”. Bị cách trở bởi giao thông, có lẽ chính bởi vậy mà Lũng Vân giữ nguyên được nét đẹp hoang sơ vốn có từ thời xa xưa. Du khách đến đây không chỉ có cơ hội ngắm nhìn thiên nhiên núi rừng, mà còn được tận hưởng không gian trong lành, dễ chịu, giúp bạn có cảm giác thư thái và thoải mái vô cùng. Con đường để khám phá Lũng Vân tuy khó đi nhưng luôn tạo được sức hút kỳ lạ của bất kỳ phượt thủ nào. Có lẽ bởi những áng mây trời lởn vởn xung quanh người lữ khách, xen lẫn là khung cảnh thiên nhiên núi rừng. Tất cả tạo nên một bức tranh hư ảo tuyệt đẹp. Đặc biệt, du khách có thể lên đến vị trí cao nhất ở Lũng Vân để được chiêm ngưỡng cảnh mây bay vào lúc sáng sớm, khi mặt trời còn chưa lên cao. Buổi sáng ở Lũng Vân gió mát và ánh nắng dịu nhẹ, mây trắng chờn vờn ở khắp các đỉnh núi, bản làng... Khi mặt trời lộ diện, những tia nắng xuyên thẳng những tầng mây mù dày đặc tràn xuống thung lũng. Những giọt sương sớm ngày đông đọng trên những phiến lá xanh mướt của những thửa ruộng bậc thang tựa như những viên ngọc bích sáng lấp lánh. Màu trắng của mây, màu vàng của ánh nắng điểm tô màu xanh của ngàn cây cỏ hòa làm một. Tất cả tạo nên bức tranh thơ tuyệt diệu giữa miền sơn cước chỉ có ở Lũng Vân. Bên cạnh trải nghiệm “săn mây”, du khách còn thích thú với các hoạt động khám phá khác như leo núi cô Tiên, trek đồi U Bò, tận hưởng cảm giác tắm suối Mó hay hòa mình vào thiên nhiên trong lành. Không chỉ vậy, khách du lịch còn có cơ hội gia sinh hoạt văn hoá cộng đồng, hay thậm chí được trải nghiệm làm những công việc hàng ngày của người dân xứ Mường như cấy lúa, gặt lúa, thu hoạch hoa quả. Đây cũng là cơ hội để hiểu sâu hơn về bản sắc văn hoá và cuộc sống vùng miền nơi đây. Lũng Vân được biết đến là điểm “Săn Mây” lý tưởng. Vậy nên đến du lịch Lũng Vân vào mùa nào đẹp nhất trong năm? Đây chính là câu hỏi của rất nhiều khách du lịch. Lũng Vân được mệnh danh là “nóc nhà xứ Mường” đẹp nhất là vào thời điểm sau tết đến tháng 4 hàng năm bởi đây là thời điểm có nhiều mây nhất. Những áng mây lững lờ trôi bao phủ từ chiều tối cho đến sáng hôm sau. Và phải tới trưa bạn mới thấy mây trời quang hẳn. Hơn nữa, đây cũng chính là thời điểm người dân xứ Mường vào vụ cấy trên khắp các thửa ruộng bậc thang trải dài. Nên theo kinh nghiệm của nhiều phượt thủ, đi du lịch Lũng Vân Hòa Bình vào thời điểm tháng 4 là tốt nhất cho việc săn mây. Hoặc nếu không cần săn mây, bạn hãy chọn thời điểm mùa lúa chín vàng ở Lũng Vân vào tháng 8, chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng.
Phú Thọ
Từ tháng 1 đến tháng 12
4841 lượt xem
Mộc Châu có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với thời tiết ôn hòa, quanh năm có hoa trái. Tháng 1, cao nguyên có màu xanh của những đồi chè nảy lộc, hoa đào, hoa mận, hoa mơ, mai anh đào... Từ giữa tháng 5, mận bắt đầu chín rộ, người dân vào vụ thu hoạch mận, đổ bán cho các thương lái miền xuôi. Mùa hè không có hoa, cũng không phải mùa dâu tây nhưng nơi đây lại rất thích hợp để dã ngoại bởi không khí trong lành và nhiều hoạt động ngoài trời. Mùa hồng chín ở Mộc Châu bắt đầu từ tháng 8 đến tháng 12 hàng năm. Trong đó, mùa hồng giòn thường có sớm hơn, từ tháng 8 đến tháng 10, còn từ tháng 10 đến cuối năm là mùa của hồng chát. Mùa cải trắng ở Mộc Châu bắt đầu vào tháng 11. Tháng 12, hoa dã quỳ vàng rực rỡ tô điểm cho cao nguyên. Mộc Châu cách Hà Nội gần 200 km. Nếu đi bằng xe máy, bạn nên đi theo đường quốc lộ 6 cũ bởi dọc đường có rất nhiều cảnh đẹp nhưng nên lưu ý tay lái bởi đường xuống cấp cũng khá nhiều. Quãng đường đi mất khoảng 4-5 tiếng. Trên đường đi, bạn sẽ qua cung đường chữ S thuộc huyện Vân Hồ. Hầu hết phượt thủ đều dừng lại ngắm cảnh và check-in tại đường cong mềm mại hình chữ S này. Còn nếu đi xe khách, bạn có thể chọn các tuyến đi Sơn La từ bến xe Mỹ Đình hoặc Yên Nghĩa, sau đó xuống ở Mộc Châu với giá vé xe chất lượng cao khoảng 200.000 đồng. Nếu tự lái ôtô, bạn không cần quá lo lắng vì đường to, dễ đi dù nhiều đèo dốc. Lưu ý, chạy đúng tốc độ và chú ý làn khi vượt. Vào mùa hè, đường ít sương mù nhưng tầm nhìn hạn chế khi trời mưa. Đoạn có thể nhiều mây mù là đường từ đoạn Thung Khe. Mộc Châu có khá nhiều nhà nghỉ. Tuy nhiên, để có được phòng ở chất lượng trong mùa cao điểm, bạn vẫn nên gọi điện đặt trước. Ở đây có hình thức nhà nghỉ sinh thái (có núi đồi, hồ nước, nhà sàn) hoặc nhà nghỉ cộng đồng kiểu homestay. Giá của một phòng khoảng 200.000 - 300.000 đồng một đêm nhưng cũng có rất nhiều nhà nghỉ có mức giá thấp hơn. Vài homestay "chill" gợi ý là MAMA's House, Le Chalet du Lac, Fairy House Mộc Châu, House By Lake, The Nordic Village, Mộc Châu Retreat... Giá phòng từ 300.000 đến 1.000.000 đồng một đêm. Để khám phá hết Mộc Châu, bạn có thể đi nhanh trong 2 ngày. Nếu có thời gian nhiều hơn khoảng 3-4 ngày là tuyệt nhất, bạn sẽ có nhiều thời gian để tìm ra những góc máy đẹp để chụp ảnh hoặc rẽ sang các khu vực du lịch nổi tiếng lân cận như Thung Nai, Mai Châu, thủy điện Hòa Bình... Các địa điểm bạn có thể ghé qua: Rừng thông Bản Áng, Thung lũng mận Mu Náu, Vường hoa Hướng Dương, Đổi chè Mộc Châu, Thác Chiềng Khoa, Thác Nàng Tiên, Thác Dải Yếm, Đồng cỏ 68, Làng Nguyên Thủy, Đỉnh Pha Luông. Các quán ăn, nhà hàng nằm dọc theo trung tâm thị trấn đoạn quốc lộ 6 đi qua. Ngoài các đặc sản như mận, trà hay sữa, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi ăn ngon. Những món ăn không thể bỏ qua khi tới đây là bê chao, cá suối rán, cá lăng đủ món, lẩu cá hồi, tiết canh heo, thịt trâu gác bếp, rau chấm nước sốt lòng cá hay cơm ngũ sắc. Muốn ăn thịt bê sữa, bạn có thể tìm các nhà hàng Đông Hải, Xuân Bắc 181, Nam Hưng 70, hay Lan Hồng 64, Bê Quán Mộc Châu... Món ăn lạ miệng nên thử là lẩu sữa tươi Mộc Châu. Nước dùng được ninh từ xương và các loại rau củ, thêm một lượng sữa vừa phải được thêm vào sao cho có đủ màu trắng sữa và vị thơm dịu, thêm ngô cho ngọt. Khi lẩu bắt đầu sôi, lớp sữa phía trên bắt đầu đóng váng, có vị béo và thơm. Đây cũng là lúc nước lẩu ngon nhất. Trong hai năm trở lại đây, Mộc Châu còn nổi tiếng là nơi tạo ra dâu tây có chất lượng không thua kém Nhật Bản hay Hàn Quốc do trồng bằng công nghệ Nhật. Mùa đông sẽ là mùa thu hoạch dâu tây tại các trang trại với những khu vườn ngập dâu chín đỏ mọng, vị chua ngọt thanh mát và nếu ăn kèm với sữa chua Mộc Châu thì rất dễ gây "nghiện". Vào mùa hè, sau mùa mận sẽ là mùa dưa gang với những trái thơm ngọt. Bạn có thể mua chè, sữa, táo mèo, ngô, rượu ngô... về làm quà từ các địa điểm: ngã ba 73 gần thị trấn, tiểu khu 32 và Bó Bun, ngã ba 70, ngã ba vườn đào, tiểu khu Chiềng Bi. Mộc Châu thường có nắng ấm vào ban ngày, nhưng nhiệt độ ban đêm khá thấp và có sương mù. Bạn cần mang đủ quần áo ấm để đảm bảo sức khỏe, kiểm tra đèn xe trước khi khởi hành. Không xả rác, dẫm lên các luống cải của đồng bào hoặc leo trèo trên cây, bẻ cành đào rừng, cành mận, hoa...
Sơn La
Tháng 1 đến tháng 12
5243 lượt xem
Với diện tích 6.915m2, Hang Dơi chứa đựng trong mình một mạch nước ngầm không bao giờ cạn. Cái tên Hang Dơi vốn bắt nguồn từ việc xưa kia có những đàn dơi lớn ở lại đây sinh sống và làm tổ nhưng hiện tại chúng đã rời đi nơi khác. Tuy nhiên, cái tên Hang Dơi vẫn được người dân ở đây gọi cho tới hiện tại như một cái tên thân thuộc từ lâu. Phía trên trần của hang động là những vòm đá cao rủ xuống tại thành những khối nhũ lung linh huyền ảo. Những khối thạch nhũ này tạo thành nhiều hình thù kỳ thú như ông tiên, bà tiên, các con vật… Tất cả tạo nên một cảnh vật vừa lung linh vừa hùng vĩ. Đây là một địa điểm mà khi đi du lịch Mộc Châu bạn không nên bỏ qua! Tương truyền rằng, ngày xưa có một con rồng thiêng, khi bay qua vùng đất này, thấy núi non nơi đây hùng vĩ, khí hậu lại mát mẻ nên đã hạ mình ẩn xuống Hang Dơi và trú ngụ ở đây. Chính vì vậy, dãy núi này có nhiều màu sắc rất huyền bí như: màu trắng ngần lúc ban mai, xanh biếc lúc trưa rồi lại chuyển hồng lúc chiều, cuối cùng là màu tím lúc hoàng hôn. Người dân ở đây thường bảo nhau đấy là do thân rồng đang bao quanh núi. Về sau, khi con rồng chết đi, nó đã nhả ra 7 viên ngọc để trả ơn. 7 viên ngọc chính là 7 ngọn núi đã tạo nên hang Dơi sau này. Nhờ những câu chuyện truyền thuyết đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác khiến cho nơi đây càng trở nên hấp dẫn và khiến cho nhiều du khách tò mò muốn đến đây để kiểm chứng. Từ khi bước vào từ cửa hang, ánh sáng hắt vào trong hang sẽ làm cho bạn cảm thấy như mình đang lạc vào một chốn thần tiên với những mảng tối, sáng khác nhau. Du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp từ các khối nhũ đá vôi rủ xuống tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ thú. Hơn nữa, những khối đá này còn có nhiều hình thù khác nhau tạo khiến du khách thấy hứng thú khi liên tưởng. Đặc biệt nhất là khối đá hình một cặp nam nữ yêu nhau ở hồ nước cạn giữa động, là điểm nhấn khiến ai cũng phải trầm trồ. Trong động, ngoài những hình thù được tạo nên từ những khối đá vôi còn có rất nhiều cây đa mà mà rễ của nó tạo thành những hình thù ở dưới đất như hình con voi, con hổ... Một điều đặc biệt nữa của Động Sơn Mộc Hương là phần giữa hang vòm cao hơn những chỗ khác trong động, có bức mành đá chắn ở lối vào, đây được gọi là buồng “công chúa”, cũng là một điểm thu hút ở nơi đây. Hang Dơi vừa là nơi tham quan vừa là nơi thám hiểm với rừng núi và cây cối mọc xung quanh, vậy nên du khách cần chú ý một số điều sau: Vì hang nằm ở nơi có rừng cây rậm rạp nên du khác nên mặc những trang phục kín và thoải mái để vừa có thể leo núi mà vừa tránh bị cồn trùng hay muỗi cắn.Nên mang thêm cả kem xịt muỗi để đảm bảo an toàn, nhất là với trẻ em. Khi đi tham quan Động Sơn Mộc Hương, bố mẹ cần để ý đến sức khỏe của con mình khi leo núi và tham quan động, sau đó, đưa ra những giải pháp kịp thời nếu trẻ quá mệt hoặc quá hiếu động mà chạy nhảy lung tung.
Sơn La
Từ tháng 1 đến tháng 12
6650 lượt xem