Di tích lịch sử

Quảng Trị

Đình làng Phù Trịch

Làng Phù Trịch (Quảng Lộc, TX. Ba Đồn) vốn nổi danh bởi chiến thắng Phù Trịch - La Hà những năm chống Pháp ác liệt. Mảnh đất này vẫn còn lưu dấu bao giá trị lịch sử, văn hóa vững bền theo thời gian. Đình làng Phù Trịch là nơi hội họp, diễn ra các hoạt động văn hóa-văn nghệ, lưu giữ nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp và còn là hiện thân của tình đoàn kết cộng đồng. Một trong những giá trị làm nên niềm tự hào vững bền của người dân Quảng Lộc nói chung và làng Phù Trịch nói riêng là mái đình Phù Trịch cổ kính, mang đậm dấu ấn thời gian. Đình Phù Trịch được xây dựng vào năm 1843, là một công trình kiến trúc ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của địa phương. Điều đáng quý là bên trong đình Phù Trịch hiện đang lưu giữ 12 sắc phong thời nhà Nguyễn từ vua Tự Đức đến vua Duy Tân, điều đó thể hiện được sự trân trọng quá khứ, cũng như công lao của các bậc tiên hiền. Mặt đình hướng ra sông Gianh, lưng tựa vào làng tạo thế đứng vững chắc giữa không gian thoáng đãng. Đình được thiết kế hai phần: đình tiền và đình hậu. Đình tiền được xây dựng khá rộng, có thiết kế đẹp, công phu. Các đường nét hoa văn được chạm khắc trau chuốt, tỉ mỉ. Ở hai đầu hồi phía đông và tây đắp hình hai con chim phượng có tư thế đang bay, với cách đắp ốp những đường nét cong lượn tinh tế, sắc sảo, uyển chuyển, hài hòa, tuyệt mỹ, mang cốt cách đăng đối cung đình. Đình hậu có kiểu kiến trúc và cách bố trí mang những nét tương đồng như những đình khác ở các địa phương khu vực miền Trung, từ các chi tiết hoa văn phối cảnh bên ngoài cho đến phần nội thất bên trong. Đình hậu được xây dựng theo hình chữ nhật, mái lợp bằng ngói Hưng Ký. Đình hậu là nơi thờ phụng vị thành hoàng danh tướng Phạm Bá Quý và các vị thần, vị tướng có công danh, đức độ, các vị khoa bảng danh thơm, tiếng tốt, phò dân, giúp nước được nhân dân mến mộ. Cách đình khoảng 20m về phía tay trái, dân làng còn lập riêng một lăng miếu được xây cất khá công phu thờ Thành hoàng Phạm Bá Quý, người có công lớn trong việc khai khẩn ruộng đất lập nên làng Phù Trịch, vừa là một vị tướng có tài. Phía trên hương án treo 2 chữ Hán “Anh Linh” do vua ban tặng, thể hiện là nơi trang nghiêm và kính cẩn để thờ ngài. Năm 1817, ông được vua Thành Thái sắc phong “Bản thổ Thành hoàng chi thần”, sau đó sắc phong là “Thượng đẳng Tôn thần”. Bởi thế, khi xây dựng miếu thờ, dân làng đã khắc hai câu đối bằng chữ Hán: “Sinh vi tướng Binh Lồi cứu quốc/Tử phong thần bản thổ thành hoàng”. Phía trên 4 nóc miếu vẫn còn giữ được những nét chạm trổ rồng, phượng tinh xảo và nguyên bản, thể hiện uy quyền của một danh tướng. Về phía đông cách đình khoảng 1.200m nhân dân địa phương còn lập nên một khu miếu gọi là “Tam tòa tứ miếu”, gồm có 4 ngôi miếu. Mỗi ngôi miếu được thiết kế theo ba tòa kiến trúc giống nhau, các đường nét đắp ốp, uốn lượn, chấm họa đều theo một thể thống nhất. Bốn ngôi miếu dùng để thờ các vị: Nam Hán Lang Lai, Tả phụ thiền tướng công Nguyễn Hữu Hiền, thân phụ các tả phụ thiền quận công, tứ vị thần nông, những vị có công trong việc trấn ải biên thùy, khai cơ điền thổ, xây dựng bảo vệ quê hương và được sắc phong qua các triều vua. Di tích lịch sử đình Phù Trịch ngoài việc thờ tự vong linh những vị tổ khai cơ lập nghiệp nên làng, những vị có công đức được nhân dân tôn kính, đình còn gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Tiêu biểu như chiến thắng Phù Trịch La Hà vào mùa xuân tháng 2-1950 đã đi vào lịch sử của địa phương và dân tộc như một mốc son chói lọi, xác và máu quân thù nhuốm đỏ cả dòng sông. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phù Trịch là địa bàn trọng điểm; bến đò ngang Phù Trịch là huyết mạch giao thông quan trọng, là nơi đưa đón bộ đội, thanh niên xung phong, nhân dân qua lại và vận chuyển hàng hóa vào chiến trường. Đình Phù Trịch là nơi tập kết quân, cất dấu hàng hóa quan trọng như vũ khí quân trang, quân dụng, gạo muối, thuốc men. Đình Phù Trịch, vùng đất Phù Trịch trở thành điểm nóng mà địch tập trung đánh phá suốt đêm với hàng ngàn loại bom đạn khác nhau hòng ngăn chặn cắt đứt mạch máu giao thông đường bộ, đường thuỷ. Đến năm 1967, 1968 với cuộc chiến tranh mang tính huỷ diệt, đế quốc Mỹ đánh bom vào nhà thương, trường học, đình, chùa, lăng, miếu… phần đình tiền cũng bị đánh sập từ đây. Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đình Phù Trịch nói riêng, làng Phù Trịch nói chung đã có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đã gần hai trăm năm qua mà các đường nét hoa văn chạm trổ trong tổng thể kiến trúc của ngôi đình vẫn nguyên vẹn trên một vùng đất có nhiều chiến tích, là nơi thờ tự, tín ngưỡng và địa điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của các thế hệ người làng Phù Trịch. Cứ vào mỗi dịp tết đến xuân về, nhất là đêm giao thừa Tết Nguyên đán, con cháu trong làng đều tập trung về đình để cùng nhau đón giao thừa, dâng hương và đánh chiêng, gõ trống khai xuân, ngày 6 tháng giêng hàng năm, tất cả các họ tựu trung tại đình làng để tổ chức lễ khai canh đầu xuân của làng. Đây là dịp để các tộc họ, con cháu gần xa trở về tham dự lễ, cùng ôn lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của vùng đất này. Và đình làng mãi là nơi chốn đi về đầy tự hào của bao thế hệ người dân nơi đây. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2631 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Đình Hòa Ninh.

Đình Hòa Ninh thuộc làng Hòa Ninh xưa nay là xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn được xây dựng từ năm Bảo Đại thứ 11 – 1936. Thời phong kiến, đình vừa là “trạm giao liên của các binh đoàn phục vụ cho việc hành quân”, vừa là nơi thờ cúng các vị anh hùng, các vị có công khai khẩn đất hoang lập nên làng mạc… Cùng với các giá trị về văn hóa, Đình làng Hòa Ninh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược cũng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử. Ngôi đình là nơi hội họp của nhân dân, nơi diễn ra các cuộc mít tinh của mặt trận Việt Minh kêu gọi quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở làng xã, huyện lỵ (8-1945). Trong những năm chống Mỹ cứu nước, đây cũng là nơi lực lượng vũ trang ta tập kết và là kho cất dấu vũ khí sẵn sàng đánh trả lại máy bay địch khi chúng đánh phá miền Bắc. Năm 1965, bom đạn giặc Mỹ khiến đình Hòa Ninh bị hư hỏng nặng. Nhưng, với sự quyết tâm của bà con, cùng sự chỉ đạo sâu sát của chính quyền các cấp, năm 1976, Đình đã được tu sửa thành công và trở thành một “địa chỉ vàng” cho thế hệ đi sau nêu cao niềm tự hào, trách nhiệm đối với truyền thống vẻ vang của cha ông. Năm 1993, Bộ Văn hóa-Thông tin (cũ) đã xếp hạng đình Hòa Ninh là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Hòa Ninh được xây dựng với quy mô và kiến trúc đồ sộ, tỷ mỷ. Đình được bố trí với hệ thống tường thành bao quanh, cổng trụ, bình phong và tòa đại đình nằm ngang. Sự sắc sảo, tinh tế thể hiện ngay ở cổng của đình, với cổng chính được xây dựng bằng gạch. Hai trụ biểu hai bên được thiết kế vô cùng công phu, các đường nét hài hòa với từng họa tiết và màu sắc. Trên hai đỉnh trụ biểu là hình ảnh hai con nghê được ốp tinh xảo bằng men xanh, nâu nhạt thể hiện sức mạnh đoàn kết của người dân. Cổng đình mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật của làng quê Việt Nam. Đình Hòa Ninh xã Quảng Hoà gồm có 5 gian, 4 vài, 1 cửa chính và 4 cửa phụ. Trước cửa chính đình có khắc chữ “Thọ” được lồng trong mặt trăng và 3 chữ Hán đắp nổi là Phúc, Du, Đồng. Đây cũng là trung tâm thể hiện các họa tiết trang trí như: Long, Lân, Quy, Phụng, bát bửu, hoa lá… bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép các mảnh sành, sứ. Ngoài ra, khu vực này còn có thêm 2 câu đối của cử nhân Nguyễn Tiến Ích. Đình Hòa Ninh có phần mái độc đáo, được xây theo kiểu tứ giác, hai mái thượng phía trước và sau, hai mái hạ ở hai đầu Đông, Tây. Ở giữa nóc đình là hình tượng lưỡng long chầu nguyệt linh thiêng. Hằng năm, vào mỗi dịp Tết, tại đình Hòa Ninh Quảng Bình có tổ chức lễ hội Kỳ Phúc, đây là lễ hội nhằm với mục đích cầu phúc cho nhân dân, cầu cho quốc thái dân an, mùa màng bội thu, thuận buồm xuôi gió... Ngoài ý nghĩa cầu phúc, đây cũng là dịp mà người dân làng Quảng Hòa, mà lớn hơn nữa là người dân Quảng Bình nhớ về tổ tiên, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nguồn Cổng thông tin điện tử xã Quảng Hòa , thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

Quảng Trị 2544 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia. Mở cửa

Di Tích Thành Tân Sở

Di tích Căn cứ Thành Tân Sở nằm ở làng Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ. Di tích Căn cứ Thành Tân Sở được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Quốc gia vào ngày 16 tháng 1 năm 1995. Đây là một di tích thành lũy quân sự cuối cùng của triều đại phong kiến triều Nguyễn ghi dấu những sự kiện lịch sử quan trọng của phong trào Cần Vương chống Pháp đầu thế kỷ XX. Tân Sở là một vùng đất biệt lập với đồng bằng và xa cách với trung tâm các sở lỵ. Bao quanh bốn phía là các đỉnh núi, dãy đồi tự nhiên tạo ra như một vòng thành khép kín. Mặt phía đông hướng ra đồng bằng Triệu - Hải rất thuận lợi cho việc giao lưu với miền xuôi. Các mặt kia đều có những con đường thượng đạo dẫn qua Lào và ra Bắc phòng khi rút lui, vì vậy nơi đây đã được chính quyền quân chủ phong kiến qua các thời kỳ chọn làm đồn trấn ải biên giới, Nha sơn phòng. Đến năm 1883 thì đổi thành Sơn phòng Quảng Trị hay còn gọi là thành Tân Sở. Căn cứ kháng chiến ở Tân Sở bắt đầu xây dựng từ năm 1883 và đến năm 1885 thì hoàn thành. Dưới sự chỉ đạo của các quan: Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Lệ, Đặng Duy Cát, hàng nghìn binh lính, dân phu đã đào đắp miệt mài suốt ngày đêm. Chính từ công việc đào đất, trồng tre để xây dựng căn cứ Tân Sở vốn tốn rất nhiều công sức nhưng nhân dân ta lại không hề nghĩ đến lợi ích riêng mà có câu ca: "Ăn cơm nhà đi vác tre ngà cho quan". Thành Tân Sở có cấu trúc theo hình chữ nhật: chiều dài 548m, chiều rộng 418m, tổng diện tích là 22,9 ha. Thành ngoại có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu đắp bằng đất, phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hệ thống hào bao quanh (sâu 2m, rộng 10m), 4 mặt thành được trồng tre ngà dày đặc gồm bốn lớp cách nhau hàng chục mét, giữa các lớp tre là thành đắp bằng đất. 4 góc thành có 4 giếng nước sâu 20m, bên trong thành ngoại có nhà cửa, trại lính, kho tàng, bãi tập trận của voi ngựa; Ở các cửa và góc thành đều có các đồn lính, ụ súng canh giữ, bảo vệ thành nội. Thành nội được xây dựng bằng gạch vững chắc, chiều dài là 165 m, chiều rộng 100m, tổng diện tích là 1,65 ha. Nội thành có 5 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu và Ngọ Môn giành cho vua và các quan ra vào hành cung. Bên trong thành nội có các khu nhà là nơi ở, làm việc của các quan. Thực dân Pháp sau vụ bị quan quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đã trả thù man rợ. Chúng gây ra vụ thảm sát tàn khốc đối với nhân dân kinh thành Huế, rồi sau đó tức tốc đánh chiếm Tân Sở, bắt cho được vua Hàm Nghi và những người cầm đầu phe chủ chiến. Cuối cùng thì Pháp chiếm được Tân Sở, chúng đã đốt phá, huỷ diệt hoàn toàn. Tân Sở chìm trong biển lửa, báo hiệu sự kết thúc của một kinh đô - một trung tâm đầu não lãnh đạo phong trào Cần vương, ghi lại một mốc lịch sử vô cùng oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc ta, trở thành nơi chứng kiến, ghi nhận tinh thần dân tộc của một vị vua yêu nước - vua Hàm Nghi. Sau hoà bình, Tân Sở ngổn ngang những đống phế liệu chiến tranh và chi chít hàng trăm hố bom. Di tích Căn cứ Thành Tân Sở rất cần được gìn giữ, tôn tạo. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 3635 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Quảng Bình Quan

Quảng Bình Quan (mới phục chế lại), ở ngay trung tâm phường Đồng Hải giữa bốn ngả đường: phía Tây là đường đi lên Đức Ninh, phía Đông là đường Mẹ Suốt đi xuống bến sông Nhật Lệ, phía Bắc là đường đi Hà Nội, phía Nam là đường đi Huế. Quảng Bình Quan cũng có nhiều tên gọi. Người thì nói đó là cửa vào dinh Quảng Bình, người thì nói Cổng Bình Quan. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí chép: ’’cửa quan dài hai trượng 1 thước, rộng hai trượng 5 thước; thành ngoài bảo vệ cửa quan dài 14 trượng 6 thước cao 3 thước, năm Minh Mệnh thứ (1826) xây gạch đá…’’ Quảng Bình Quan thời Nguyễn, được đắp bằng đất vào năm 1631, là hệ thống thành lũy cổ được xây đắp để bảo vệ kinh thành Nguyễn. Quảng Bình quan nằm trong hệ thống Lũy Thầy, bao gồm Lũy Trường Dục, Lũy Trấn Ninh, Lũy Nhật Lệ, Lũy Trường Sa kéo dài hơn 30 km. Hệ thống Lũy Thầy do Quân sư chúa Nguyễn là Đào Duy Từ (1572-1634) thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng từ năm 1631-1634, nhằm giúp Chúa Nguyễn ở Đàng Trong chống lại các đợt tấn công của Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài vào thời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Nơi đây có địa thế tựa núi gần khe rất chắc chắn, ngăn cách với đất Bắc, vô cùng hiểm trở chẳng khác gì đang đi vào đất Thục cả. Dưới thời chúa Nguyễn, người châu Nam Bố Chính hay ở phương Bắc có việc gì, muốn vào dinh Quảng Bình nếu đi đường bộ thì trước hết phải vào Quảng Bình Quan trình giấy tờ rồi mới ngược ra hướng bắc mà vào cửa Nam Môn để nhập thành. Người đi đường thủy thì phải ghé thuyền ở cửa Nhật Lệ, trình giấy tờ ở cửa quan Thủ Ngự rồi cho thuyền lên bến cửa đông mà nhập thành. Quảng Bình quan nằm trấn giữ con đường huyết mạch Bắc-Nam và đường thuỷ từ cửa biển Nhật Lệ vào. Vì thế, mà hơn 7 lần quân của Chúa Trịnh vượt Sông Gianh vào Nam đều bị chặn đứng tại đây. Là chứng tích đau thương của một thời phân tranh đất nước, nhưng Quảng Bình Quan cũng như hệ thống Luỹ Thầy đã thể hiện sự phát triển cao của nghệ thuật kiến trúc thành luỹ quân sự Việt Nam. Nơi này là trung tâm của hệ thống Lũy Thầy, Quảng Bình Quan được xây dựng theo một mô hình kiến trúc độc đáo, kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố, vừa là chiến luỹ phòng ngự chiến đấu kiên cố vững chắc, vừa là một công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Quảng Bình Quan chính là địa chỉ tin cậy cho các nhà nghiên cứu kiến trúc và quân sự sau này. Vào năm 1825, vua Minh Mạng đã cho trùng tu Quảng Bình Quan và nâng cao thêm tầng tháp canh bằng loại gạch nung kiên cố, sau khi khánh thành nhà vua đã xếp Quảng Bình Quan là một trong những công trình văn hoá lịch sử đặc sắc của đất nước, cho đúc nổi hình ảnh Quảng Bình Quan vào Nghi Đỉnh đặt trước Thế Miếu trong Tử Cấm Thành. Trước Cách mạng tháng 8-1945, Quảng Bình Quan (phía đường Đức Ninh) còn có hào ngoài thành, có cầu gạch vòng qua hào và phía ngã ba giữa hai con đường Đức Ninh và Cầu Rào (ngày xưa thời chúa Nguyễn là đường thiên lý và đường thượng đạo) còn có một âm hồn trên một nghĩa địa lớn. Quảng Bình Quan bị quân đội Pháp phá hủy khi họ rút khỏi Đồng Hới năm 1954, sau đó được xây lại gần giống như cũ. Năm 1965, chiến tranh phá hoại, bị máy bay của Mỹ đánh tan. Hiện nay, Quảng Bình Quan đã được phục chế lại như nguyên bản cách đây hơn ba thế kỷ. Quảng Bình Quan, một di tích kiến trúc có giá trị lịch sử và nghệ thuật, biểu tượng đặc trưng về văn hóa của vùng đất địa linh nhân kiệt. Nguồn: BẢO TÀNG TỔNG HỢP QUẢNG BÌNH

Quảng Trị 3152 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Câu Nhi

Di tích Đình làng Câu Nhi thuộc làng Câu Nhi, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng (nay là xã Hải Phong, huyện Hải Lăng), nơi gắn với danh nhân Bùi Dục Tài. Di tích đã được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng quốc gia ngày 13/3/2001. Làng Câu Nhi thuộc xã Hải Tân xưa có tên là Câu Lãm – một làng có tiếng văn vật. Mảnh đất này đã sản sinh ra nhiều nhân vật vang bóng một thời, trong đó nổi danh là Bùi Dục Tài. Các tài liệu hiện có cho biết làng được thành lập từ đầu thế kỷ 15. Đình làng Câu Nhi nguyên xưa là một ngôi đình lớn và đẹp có tiếng khắp vùng. Theo Thỉ Thiên thì ngôi đình đầu tiên được dựng lên ở khu đất mà nay còn có tên gọi là cồn đình vào khoảng những năm đầu thời Lê sơ (1428 – 1433). Đến thời Tây Sơn, đình được chuyển đến khu vực đầu làng, ở ven ngã ba sông – tại địa điểm hiện nay. Gia phả họ Bùi cho biết đình được xây dựng vào năm 1879, đến năm 1882 thì hoàn thành. Đây là lần xây dựng đình quy mô. Kiến trúc của đình là một ngôi nhà rường rộng 5 gian 2 chái. Bộ khung gỗ có kết cấu vững chãi, các cột cái bằng gỗ lim, những cột khác bằng gỗ mít. Bộ mái lợp ngói liệt. Xung quanh đại đình có tường gạch che chắn ba mặt. Vào năm 1950, trong thời kỳ Pháp xâm lược, ngôi đình bị đốt cháy hoàn toàn. Năm 1955, làng tổ chức quyên góp tiền của để tu tạo lại, nhưng do không có đủ vật lực nên diện tích ngôi đình phải thu hẹp và diện mạo kiến trúc cũng thay đổi. Đó là hai nếp nhà song ngang theo kiểu chữ nhị làm theo lối nhà rường 3 gian 2 chái. Phía trước là tiền đường, phía sau là chính điện. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, đình làng Câu Nhi cũng như bao ngôi đình khác trên vùng đất Quảng Trị không tránh khỏi sự phá hoại của bom đạn. Đình Câu Nhi được trùng tu 3 lần vào các năm 1967, 1985 và 1955. Năm 1991, xây lại bình phong và cổng thành phía trước. Đình hiện còn chỉ gồm một ngôi nhà 3 gian, quy mô nhỏ, trải theo chiều ngang, mặt hướng ra sông Ô Lâu. Hai đầu hồi xây tường phẳng, ba phía xây tường gạch, mặt trước lắp đặt hệ thống cửa “thượng song hạ bản”. Cấu trúc kiểu vài chồng, cột nóc. Mái lợp ngói móc. Các họa tiết rồng, giao trên mái tuy không đơn điệu nhưng không có gì đặc biệt. Bình phong và cổng thành xây lại rất quy mô. Trong khu vực đình có một công trình kiến trúc đáng chú ý là Văn Thánh nằm ở góc Tây bắc, nơi dân làng tạo dựng để thờ Khổng Tử và những người đỗ đạt ngõ hầu mong con cháu mai sau nối dõi thánh hiền. Trước mặt đình là một chợ làng họp vào mỗi buổi sáng thường ngày, nay vẫn còn nhưng không đông đúc mấy. Phía sau lưng đình làng, đối diện qua con đường là chùa Quan Khố. Trong khuôn viên của ngôi chùa trước đây có ngôi miếu thờ thượng thư Bộ Lễ Bùi Dục Tài (nay chỉ còn nền móng). Bên trong thờ thành hoàng và những người có công xây dựng đình. Lễ hội được tổ chức hàng năm ở đình làng Câu Nhi có lễ Cầu an tổ chức vào những ngày đầu năm; Vào những dịp tế lễ, dân làng thường tổ chức hội làng với các trò diễn, trò vui như: đua thuyền, hội chợ, đánh đu, chơi cờ… Đình làng Câu Nhi trong tiến trình lịch sử của mình là nơi xảy ra nhiều sự kiện gắn với làng Câu Nhi và vùng đất Hải Lăng Quảng Trị. Dưới thời Mạc (1527 – 1592), nhân dân Câu Nhi do quan tướng địa phương Hoàng Bôi lãnh đạo đã dùng đình làng làm nơi hội họp, rèn luyện võ nghệ, tích trữ lương thực. Cuộc khởi nghĩa Hoàng Bôi đã để lại những dấu ấn lịch sử trên vùng đất bên bờ sông Ô Lâu. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đình làng Câu Nhi là trụ sở của Ủy ban hành chính kháng chiến xã Hải Tân – nơi lần đầu tiên người dân bên bờ sông Ô Lâu được cầm lá phiếu bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tư cách là người dân làm chủ. Đây cũng là nơi tổ chức hội họp, luyện tập tự vệ, thực hiện các phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, tuần lễ vàng… Nguồn: Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 4578 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà Lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn

Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn nằm bên bờ sông Thạch Hãn, trên địa phận thôn Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn được công nhận là di tích Quốc gia ngày 29-10-2010. Lê Duẩn (1907 - 1986) là một người con của thôn Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất có bề dày về truyền thống yêu nước, Lê Duẩn sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1928, tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và trở thành một trong những Đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi gắn bó mật thiết với lịch sử đấu tranh cách mạng cũng như sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội của Đảng và đất nước. Trong suốt 26 năm, với cương vị là Bí thư thứ nhất và sau đó là Tổng Bí thư, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Duẩn vẫn luôn nêu cao khí phách kiên trung của người cộng sản đặc biệt là những đóng góp to lớn của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Lê Duẩn xứng đáng là một lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc, một chiến sĩ kiên cường của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế và là một người con ưu tú của quê hương Quảng Trị. “Di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn”, là tên gọi chung cho một quần thể di tích bao gồm: Nhà lưu niệm đồng chí Lê Duẩn - nơi sinh hoạt của gia đình đồng chí từ khi chuyển từ Bích La Đông lên Hậu Kiên và hiện nay là nơi thờ tự hai cụ thân sinh và đồng chí tại quê hương, thôn Hậu Kiên; Nhà tưởng niệm, là nơi tổ chức hành lễ, viếng thăm của khách tham quan; Nhà trưng bày bổ sung, là nơi trưng bày những hiện vật, ảnh tư liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp đồng chí Lê Duẩn Nhà lưu niệm cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nằm trên khuôn viên có diện tích 2.000m2. Nguyên trước đây là nhà và vườn của cụ thân sinh Lê Hiệp. Nhà làm bằng gỗ, khá khang trang. Trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, ngôi nhà bị đốt cháy nhiều lần, sau giải phóng chỉ còn lại nền nhà. Năm 1976, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn công lao to lớn của đồng chí đối với Đảng và Nhà nước, Đảng bộ và nhân dân huyện Triệu Phong đã chung tay góp sức dựng lại ngôi nhà của gia đình đồng chí trên nền đất cũ. Ngôi nhà có kết cấu theo dạng nhà băng xưa gồm 3 gian 2 chái, có nhà sau (nhà dưới) rộng 4,5m, dài 9m, mái lợp tranh, vách khại tre, trát bùn và gỗ. Bên trong nhà còn phục chế lại các đồ dùng như giường nằm, sập, bàn, tủ thờ... Cuối năm 1977, mái tranh bị hỏng, UBND huyện đã thay lại bằng ngói mốc. Từ năm 1978 - 1985, tiếp tục trải qua nhiều lần tu sửa, cải tạo thay vách tre bằng gỗ ép. Năm 1995, Bảo tàng tỉnh Quảng Trị đã trùng tu lại ngôi nhà dựa trên những kết cấu của ngôi nhà cũ (bốn vài hai chái, có nhà sau) rộng 10m, dài 12m, mỗi gian rộng 2,5m, mỗi chái rộng 1,5m có mái hiên. Năm 2005, dự án quy hoạch, xây dựng trùng tu tôn tạo di tích khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn hoàn thành, một số hiện vật, tư liệu trưng bày ở nhà lưu niệm trước đây chuyển sang trưng bày tại Nhà trưng bày bổ sung. Nhà lưu niệm vẫn dùng làm nơi thờ tự hai cụ thân sinh và đồng chí Lê Duẩn. Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn là một di tích lịch sử lưu niệm danh nhân tiêu biểu của tỉnh Quảng Trị, gắn liền tuổi trẻ và những năm tháng hoạt động cách mạng của đồng chí ở quê nhà với sự tồn tại và phát triển phong trào đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nguồn: Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 4935 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa đạo Vịnh Mốc

Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là công trình kiến trúc quân sự kỳ vĩ dưới lòng đất, ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với khẩu hiệu “quân sự hóa toàn dân, công sự hóa toàn khu vực” quân dân Vĩnh Linh đã tiến hành đào hầm hào, với nhiều công năng: trụ sở, kho hậu cần, trường học, bệnh viện, khu vực sinh hoạt của từng gia đình…, được bố trí khắp các điểm dân cư, dọc đường đi, ven ruộng, bờ biển, được nối thông nhau bằng hệ thống giao thông hào chằng chịt thay cho đường trên mặt đất. Tính từ cuối năm 1965 đến năm 1968 (theo thống kê chưa đầy đủ), toàn huyện Vĩnh Linh có 114 địa đạo với tổng chiều dài hơn 40km, hệ thống giao thông hào hơn 2.000km và hàng trăm tiểu đạo khác, trở thành những “làng hầm” - lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, thể hiện ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” bám trụ chiến đấu bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu ra tiền tuyến. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh phân bố khắp 15 xã, thị trấn của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, bao gồm: 1. Địa đạo Vịnh Mốc (Vĩnh Thạch). Thuộc thôn Vịnh Mốc và thôn Sơn Hạ, xã Vĩnh Thạch. Gồm 13 cửa ra vào (có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển). Dọc hai bên đường hầm, có khoét các ngách nhỏ đủ sinh hoạt cho 2 đến 4 người. Trong hầm còn có hội trường (sức chứa từ 50 đến 60 người), làm nơi hội họp, xem phim, biểu diễn văn nghệ... và một số công trình khác như: bảng tin, nhà hộ sinh, 3 giếng nước, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật, trạm xá, bếp nấu ăn (bếp Hoàng Cầm). Ngoài hệ thống đường hầm, địa đạo trong lòng đất, địa đạo Vịnh Mốc còn có các công trình trên mặt đất như: giao thông hào, ụ pháo, kè chắn sóng, nhà trưng bày... 2. Hệ thống địa đạo Hiền Dũng (Vĩnh Hòa). Nằm trên địa phận thôn Hiền Dũng, xã Vĩnh Hòa, bao gồm 2 địa đạo: Địa đạo Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang khu vực Vĩnh Linh có chiều dài khoảng 1.540m, bao gồm 18 cửa lên xuống, 15 giếng thông hơi. Địa đạo Thông tin Công an nhân dân vũ trang khu vực Vĩnh Linh có 8 cửa lên xuống và 10 giếng thông hơi. 3. Hệ thống địa đạo Hương Nam, Troong Môn - Cửa Hang, thôn Roọc và các địa đạo Hải Quân (Vĩnh Kim). Gồm Địa đạo Hương Nam: thuộc thôn Hương Nam, xã Vĩnh Kim. Hệ thống địa đạo Troong Môn: nằm sát bờ biển của xã Vĩnh Kim. Địa đạo Cửa Hang: Trục đường hầm chạy theo hướng Đông - Tây, có 2 cửa. Địa đạo thôn Roọc: thuộc thôn Roọc Các địa đạo Hải Quân: Các tiểu đạo này nằm gần nhau trong vòng bán kính 50m gồm: Địa đạo Hải quân 1, Địa đạo Hải quân 2, Địa đạo Hải quân 3, Địa đạo Hải quân 4. 4. Hệ thống địa đạo Mũi Si, địa đạo 61 (thị trấn Cửa Tùng). Gồm Địa đạo Mũi Si: nằm bên trục đường ven biển từ Cửa Tùng đến Địa đạo Vịnh Mốc, thuộc khu phố Thạch Bàn, thị trấn Cửa Tùng. Địa đạo 61: nằm bên trục đường vào xóm Bến, thuộc khu phố An Hòa 2, thị trấn Cửa Tùng. 5. Địa đạo Hải quân (Vĩnh Nam). Nằm trên quả đồi thuộc thôn Nam Cường, xã Vĩnh Nam. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh là chứng tích lịch sử về sức mạnh, tinh thần bất khuất, ý chí kiên cường bám đất giữ làng, sự sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân, biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước dân tộc ta. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử Địa đạo Vịnh Mốc và Hệ thống làng hầm Vĩnh Linh (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Quảng Trị 5047 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

CĂN CỨ QUÂN SỰ DỐC MIẾU

Căn cứ quân sự Dốc Miếu thuộc địa phận xã Gio Phong, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Di tích lịch sử này khá nổi tiếng và được coi là “pháo đài bất khả xâm phạm” trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Nằm ở phía Đông Quốc lộ 1A, cách cầu Hiền Lương khoảng 7km về phía Nam, Dốc Miếu là đồi đất bazan nằm trong vùng địa hình bao gồm ba dốc chạy ngoằn ngoèo. Đây cũng chính là phòng tuyến do Mỹ xây dựng với tên gọi Namara – tên một tướng chỉ huy quân Mỹ – Ngụy, nhằm ngăn chặn mọi sự chi viện từ miền Bắc và chiến trường miền Nam. Trong đó, căn cứ quân sự Dốc Miếu là cứ điểm quan trọng nhất trong phòng tuyến này. Tại đây, địch xây dựng hệ thống hầm nhà vòm và lô cốt di động bằng bê tông. Cùng với đó là trận địa pháo hướng về phía bờ bắc sông Bến Hải, trung tâm điều khiển bảo vệ hàng rào, chi đội thiết giáp tuần tra, bố trí nhiều đại đội Mỹ – Ngụy. Xung quanh căn cứ ngoài các hàng rào kẽm gai với 12 lớp cao 3m, trên mặt là hàng rào có gài mìn tự động, dưới hàng rào là bãi mìn dày đặc rộng hàng trăm mét. Năm 1972, quân và dân ta đồng loạt nổ súng, bắn lựu đạn DKD, A12, bom phóng, vây chặt căn cứ quân sự Dốc Miếu. Sau ba ngày tấn công liên tiếp, địch phải bỏ chạy vào đêm 31/3/1972, bỏ lại đồn bốt, cộng sự cùng với hệ thống hàng rào điện tử hiện đại. Hiện nay, nhà nước ta cho xây dựng tượng đài chiến thắng ghi công các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng. Dưới chân là các đồi cao su nối dài thẳng tắp, minh chứng cho cuộc sống đang hồi sinh mãnh liệt trên mảnh đất một thời bom lửa này. Di tích căn cứ quân sự Dốc Miếu đã trở thành một điểm tham quan du lịch lịch sử cho du khách ghé thăm mỗi khi đến Quảng Trị. Đây không những là biểu tượng cho tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường của dân tộc ta mà còn có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với các thế hệ tương lai của đất nước. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 5206 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nghĩa trang liệt sỹ quốc gia Trường Sơn

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc. Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê chuẩn dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng Trị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã anh dũng hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang được khởi công xây dựng vào ngày 24/10/1975 và hoàn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy xây dựng là Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá xã Hoà Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ; có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và mạng đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m2. Phần đất mộ được phân thành 10 khu vực chính. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của các chiến sĩ đã hy sinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Đây là một công trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mô nhất có tính nghệ thuật cao, thể hiện lòng thương nhớ sâu sắc, niềm biết ơn và sự tôn vinh thầm kín của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với những người con yêu quý trên mọi miền đất nước đã không tiếc máu xương cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước. Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959 – 19/5/1999), Đảng và Nhà nước đã quyết định cho nâng cấp, tôn tạo lại nghĩa trang Trường Sơn bao gồm nhiều hạng mục: Cổng vào nghĩa trang Trường Sơn, hệ thống đường và tường bao quanh, mô hình sở chỉ huy, biểu tượng của các địa phương, các cụm tượng, hệ thống thoát nước, điện nội bộ, trồng cây xanh xung quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghi công...Đến nay tất cả các hạng mục của các công trình về cơ bản đã được hoàn tất. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các anh hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn không chỉ là nơi để các gia đình liệt sỹ, các đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước, chính quyền các địa phương đến viếng thăm và thực hiện công việc đền ơn đáp nghĩa mà còn là nơi hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nước và bạn bè quốc tế theo truyền thống đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam: uống nước nhớ nguồn. Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên thường xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sỹ, các đoàn khách trong và ngoài nước đến thăm viếng Nguồn: Văn Phòng Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 5068 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Sân bay Tà Cơn

Khu di tích sân bay Tà Cơn thuộc địa phận thôn Hòa Thành , xã Tân Hợp, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Với địa hình như một thung lũng lòng chảo được bao bọc xung quanh những đồi núi, sân bay Tà Cơn là một trong những căn cứ điểm quân sự chiến lược của quân đội Mỹ trong những năm 1966 -1968 tại chiến trường Khe Sanh. Gần biên giới lại án ngữ Quốc lộ 9 nối liền từ Đông Hà (Việt Nam với Nam Lào), nơi đây có một vị thế chiến lược quan trọng về quân sự không chỉ trên chiến trường Quảng Trị mà còn cả khu vực Đông Dương. Chính vì vậy, Khe Sanh được quân đội Mỹ sử dụng như một bàn đạp cho các cuộc hành quân càn quét trên bộ. Sân bay Tà Cơn được xây dựng với mục đích cho các máy bay trinh sát kiểm tra, chỉ điểm cho nhiều họat động đánh phá, ngăn chặn và cắt đứt các tuyến đường Hồ Chí Minh.. Đặc biệt, nằm trong tuyến hệ thống hàng rào điện tử Namara được trải dài từ biển Cửa Tùng lên đến vùng biên giới, căn cứ Khe Sanh được xác định là trung tâm. Thế nên, quân đội Mỹ xây dựng một tập đoàn phòng ngự kiên cố nhất của Mỹ ở vùng địa đầu miền Nam Việt Nam gồm các cứ điểm: Làng Vây, Chi khu quân sự Hướng Hóa – cụm cứ điểm phòng ngự sân bay Tà Cơn. Và cụm cứ điểm Tà Cơn – sân bay Tà Cơn, được coi là khu trung tâm xây dựng với quy mô chạy dài 2km, rộng 1km, gồm nhiều tiểu cứ điểm với công sự kiên cố dày đặc và một sân bay cỡ lớn. Sân bay có diện tích khoảng 10.000m2 nằm giữa căn cứ với một đường băng được lát bằng hàng nghìn tấn ri nhôm và ri sắt. Nơi đây trở thành nơi cất, hạ cánh của các loại máy bay lên thẳng vũ trang, phản lực chiến đấu và cả các loại máy bay chuyên vận tải quân sự hạng nặng như C130 và C123. Trong khu vực sân bay có trụ sở chỉ huy cứ điểm, đài chỉ huy sân bay, đài liên lạc…cùng hệ thống công sự phòng ngự dày đặc. Bên ngoài là một hàng rào dây kèm gài bùng nhùng và những bãi mìn lớn. Cùng với các thiết bị quân sự hiện đại và vị trí quan trọng, sân bay Tà Cơn cùng các cao điểm kế cận đã hình thành nên một thế phòng ngự liên hoàn, cơ động, được quân đội Mỹ - ngụy lúc bấy giờ coi là một vị trí “cứng” nhất trong cả hệ thống tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Và sân bay Tà Cơn được quân đội Mỹ xem như một pháo đài bất khả chiến bại Tại đây, trước sức mạnh những cuộc tiến công giải phóng Khe Sanh của Quân đội nhân dân Việt Nam từ tháng 2 đến tháng 7-1968, quân đội Mỹ không còn cách nào khác ngoài việc mở cuộc rút quân chiến thuật bằng không quân nhằm cứu hàng nghìn lính Mỹ. Cách đây đúng 55 năm, ngày 9/7/1968, lá cờ chiến thắng của quân ta tung bay trên cứ điểm sân bay Tà Cơn. Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh kết thúc thắng lợi vang dội. Khe Sanh - Hướng Hóa là huyện đầu tiên của Quảng Trị và của miền Nam hoàn toàn được giải phóng và tạo niềm tin vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tại khu di tích sân bay Tà Cơn hiện nay, nhà Bảo tàng về Đường 9 – Khe Sanh là nơi trưng bày hàng trăm hiện vật có giá trị về lịch sử, khoa học. Cùng với đó, hệ thống hầm hào, đài quan sát không lưu…được phục dựng trong khuôn viên sân bay. Năm 1986, di tích sân bay Tà Cơn được xếp hạng di tích Quốc gia. Nơi đây còn trưng bày những hiện vật ngoài trời như máy bay, xe tăng, pháo cùng hàng chục vỏ bom, đạn. Đây là những vũ khí, phương tiện chiến tranh mà quân đội Mỹ đã từng dùng để tham chiến tại chiến trường Khe Sanh – Tà Cơn cách đây tròn 55 năm. Nguồn: Bộ văn hoá thể thao du lịch

Quảng Trị 3877 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà tù Lao Bảo

Di tích Nhà tù Lao Bảo hay còn gọi là Nhà đày Lao bảo nằm ở phía Tây Nam Đường 9, cạnh sông Sê Pôn, thuộc địa bàn thôn Duy Tân, thị trấn Lao Bảo; Di tích đã được xếp hạng Quốc gia ngày 25/01/1991. Dưới thời phong kiến Lao Bảo là đồn trấn ải biên thuỳ của Nhà Nguyễn dùng để trấn giữ một phần phên dậu phía Tây của Tổ quốc, vừa dùng làm nơi lưu đày các tội đồ có án phạt nặng. Từ khi thực dân Pháp đặt quyền bảo hộ lên đất nước Việt Nam, chính thức mở Đường 9 (năm 1904), thì sau 4 năm, chính quyền thực dân bắt tay vào việc nâng cấp Bảo Trấn Lao thời nhà Nguyễn thành nhà tù Lao Bảo (1908). Lúc mới lập, nhà tù Lao Bảo chỉ có hai dãy nhà giam bằng gỗ, lợp ngói, tường trét toóc xi, gọi là Lao A và Lao B; Mỗi dãy nhà dài 15m, rộng 5m, cao 2m có thể giam giữ được 60 tù nhân. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều phong trào cách mạng nổ ra khắp miền Trung, thực dân Pháp tăng cường săn lùng, bắt bớ đàn áp cách mạng. Để phục vụ cho việc giam giữ tù nhân là đảng viên Đảng Cộng sản. Cuối năm 1934, chúng cho xây dựng thêm hệ thống nhà lao kiên cố bằng bê tông, cốt thép là lao C, D, hầm E; Mỗi nhà lao dài 30m, rộng 6m. giam giữ được khoảng 180 tù nhân. Và Khu biệt giam có 13 buồng, mỗi buồng rộng 1m, cao 2,14m.. Toàn bộ các công trình được bao quanh bởi hệ thống tường thành kiên cố cao 3,5m và nhiều lô cốt bảo vệ ở các góc thành và các vị trí quan trọng. Ngoài ra, còn có một số công trình phục vụ khác như: Nhà Đồn trưởng, nhà tra tấn, hỏi cung, trại lính, kho, xưởng mộc, xưởng rèn…Các công trình này nằm trên diện tích hơn 10 ha. Nhà tù Lao Bảo là một trong năm nhà tù lớn nhất Đông Dương, đã giam cầm các nhà yêu nước, chiến sĩ cộng sản của vùng Trung Bộ. Với khí hậu khắc nghiệt, nạn muỗi rừng, lũ quét cùng với chế độ nhà tù hà khắc như: tra tấn dã man, lao dịch nặng nề; ăn uống tồi tệ, đau ốm không có thuốc men đã hành hạ thể xác con người đến chết dần, chết mòn…, nhà tù Lao Bảo trở thành địa ngục trần gian đối với tù nhân. Gần 40 năm tồn tại, nhà tù Lao Bảo đã giam cầm hàng ngàn chiến sĩ Cộng sản và người dân yêu nước. Trải qua hai cuộc chiến tranh, nhất là trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Nhà tù Lao Bảo đã bị phá huỷ gần như hoàn toàn, nhiều công trình chỉ còn lại một phần kiến trúc như: Lao C, D, E, Nhà hỏi cung, Khu biệt giam, một số lô cốt… nhưng hầu hết đã bị biến dạng và trở thành hoang phế. Ngày nay, ngoài những chứng tích tội ác của kẻ thù gây ra đối với dân tộc ta, tại đây còn có một số công trình mới xây dựng nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di tích như: Nhà trưng bày bổ sung, Cụm tượng đài, Nhà bia, Nhà đón tiếp… Nhà tù Lao Bảo là bằng chứng sống động về tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta trong những thập niên đầu thế kỷ 20. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 3646 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải

Di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải thuộc địa bàn huyện Vĩnh Linh (các xã Vĩnh Thành, Vĩnh Giang, Vĩnh Sơn, thị trấn Cửa Tùng) và huyện Gio Linh (xã Trung Hải), tỉnh Quảng Trị. Địa danh Hiền Lương - Bến Hải là nơi đã chứng kiến nỗi đau chia cắt hai miền và những sự kiện lịch sử gắn với quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của quân và dân ta trong thời kỳ chống Mỹ - Ngụy. Sau khi Hiệp định Giơ Ne Vơ được ký kết (ngày 20/7/1954), nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) làm ranh giới, để chờ đến tháng 7/1956 tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng với những biến cố do sự phá hoại của các thế lực thù địch, đã khiến chúng ta phải mất 21 năm sau (1975), với bao xương máu của chiến sĩ, đồng bào đã đổ xuống mới giành được độc lập, thống nhất đất nước. Trục chính của di tích này nằm xuyên suốt theo hướng Bắc - Nam mà trung tâm chính là chiếc cầu Hiền Lương lịch sử - nhịp nối giữa Cột cờ phía Bắc và Cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất” ở bờ Nam. Các thành phần chính của di tích gồm: 1. Khu vực đôi bờ cầu Hiền Lương: Gồm các điểm di tích sau: Cầu Hiền Lương, Nhà Liên hợp, Cột cờ Hiền Lương, Hệ thống loa phóng thanh bờ Bắc, Đồn Công an Hiền Lương, Nhà trưng bày “Vĩ tuyến 17 và khát vọng thống nhất”, Đồn - Trạm Cảnh sát bờ Nam, Cụm tượng đài “Khát vọng thống nhất”. 2. Đồn Công an Cửa Tùng. Hiện nay, địa điểm Đồn Công an Cửa Tùng thuộc doanh trại Đồn Biên phòng 204. Ngoài chức năng dùng để làm việc, lưu trú, công trình còn phục vụ cho mục đích an ninh quốc gia. Tầng dưới của khu nhà hai tầng được dành một phần để làm Nhà truyền thống của Đồn, trưng bày 92 ảnh tư liệu, 60 hiện vật liên quan trực tiếp đến lịch sử đấu tranh cách mạng của cán bộ, chiến sĩ Đồn Công an Cửa Tùng, các đồn, trạm dọc theo bờ Bắc sông Bến Hải và Đồn Biên phòng 204 từ năm 1954. 3. Các bến đò trên sông Hiền Lương - Bến Hải: Gồm các điểm di tích sau: Bến đò Cửa Tùng (Bến đò A), Bến đò Tùng Luật (Bến đò B), Bến đò Lũy (Bến đò C), Bến đò Thượng Đông và Dục Đức. 4. Đài di tích gồm: bệ đài và tổ hợp mang tính nghệ thuật biểu trưng, với hình tượng những con thuyền đang lao về phía trước, bất chấp mọi hiểm nguy, bom đạn của kẻ thù, đêm đêm đưa hàng hóa, bộ đội vào chiến trường đánh Mỹ. Ngoài việc bảo tồn, tôn tạo các di tích, Lễ hội thống nhất non sông được định kỳ tổ chức tại di tích vào ngày 30 tháng 4 hằng năm (năm thường do địa phương tổ chức, năm chẵn do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị đồng tổ chức). Đây là một lễ hội cách mạng đặc sắc, riêng có ở khu di tích Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, Quảng Trị. Với những giá trị đặc biệt của di tích, ngày 09/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã xếp hạng Di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải (huyện Vĩnh Linh và huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị) là di tích quốc gia đặc biệt . Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Quảng Trị 3527 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Thành cổ Quảng Trị

Di tích Thành cổ Quảng Trị nằm giữa lòng thị xã Quảng Trị; cách quốc lộ 1A gần 1km về phía đông bắc, cách thành phố Đông Hà - tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị hiện nay khoảng 14km về phía đông nam. Thành Cổ Quảng Trị được xây dựng từ thời vua Gia Long và đến thời vua Minh Mạng mới hoàn thiện, kéo dài gần 28 năm (1809-1837), Thành lúc đầu được đắp bằng đất, đến năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Khuôn viên Thành có dạng hình vuông với chu vi tường thành dài 2160m, thành cao 3m, dưới chân dày 13,5m, đỉnh dày 0,72m. Bên ngoài thành có hệ thống hào rộng bao quanh. Bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Thành có 4 cửa: Tiền, Hậu, Tả, Hữu Xây vòm cuốn, rộng 3,4m, phía trên có vọng lâu, mái cong, lợp ngói, cả 4 cửa đều nằm chính giữa 4 mặt Thành. Trong suốt thời gian đô hộ và thống trị của thực dân Pháp, Thành Cổ Quảng Trị với tư cách là trung tâm đầu não của bộ máy cai trị cấp địa phương, cấp tỉnh. Thành Cổ Quảng Trị được quân đội Pháp chọn làm một trong những cứ điểm quan trọng của hệ thống đồn quân sự. Pháp đã cho xây dựng thêm một hệ thống nhà tù, mở rộng và kiên cố hoá khu lao xá để làm nơi giam giữ những người yêu nước, các chiến sĩ cách mạng trong tỉnh và khu vực. Nhà lao Quảng Trị có lúc đã trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng bởi chính đây từng là nơi giam giữ những hạt nhân nòng cốt của thanh niên, những chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Quảng Trị và nhiều vị lãnh đạo của Tỉnh ủy, Xứ ủy thuộc thời kỳ tiền khởi nghĩa. Đến thời kỳ Mỹ - ngụy. Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết ngày 20/7/1954, theo hiệp định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia cắt tạm thời. Một phần của Quảng Trị từ Sông Bến Hải trở ra được giải phóng, các huyện từ Gio Linh trở vào Hải Lăng trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Thị xã Quảng Trị, trong đó có Thành Cổ Quảng Trị trở thành trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế – xã hội. Mỹ – ngụy biến Thành Cổ thành khu quân sự, làm kho tàng quân đội và trung tâm chỉ huy chiến dịch toàn tỉnh, đồng thời mở thêm nhà giam để đàn áp phong trào cách mạng. Cuộc tấn công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam bắt đầu. Ngày 28 tháng 4 ta chiếm được Đông Hà và tiến đến sát thị xã Quảng Trị. Ngày 2/5, Thị xã Quảng Trị được giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch Quảng Trị năm 1972 đã làm thay đổi cơ bản cục diện chiến trường, đẩy chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ đến bờ vực phá sản, tạo đà và thế cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Để mất Quảng Trị, Mỹ – nguỵ đã điên cuồng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mật danh “Lam Sơn 72”. Trong đó mục tiêu số 1 là phải chiếm được Thành Cổ Quảng Trị. Thị xã Quảng Trị trong 81 ngày đêm từ 28 tháng 6 đến 16 tháng 9 được ví như một túi bom. Trung bình mỗi ngày địch huy động 150-170 lần chiếc máy bay phản lực, 70 – 90 lần chiếc B52 để ném bom huỷ diệt thị xã và Thành Cổ Quảng Trị. Với diện tích chưa đầy 3 cây số, trong 81 ngày đêm thị xã và Thành Cổ Quảng Trị phải gánh chịu 328.000 tấn bom đạn, trung bình mỗi chiến sỹ của ta phải gánh chịu 100 tấn bom, 200 quả đạn pháo. Ta thì hạ quyết tâm giữ cho bằng được thành, còn địch cố chiếm cho được thành bằng mọi giá. Hàng ngàn chiến sĩ đã hy sinh tại đây chưa lấy được hài cốt vì khói lửa bom đạn quá nhiều, xương máu các anh đã hòa quyện vào gạch đá đổ nát. Chính vì vậy mà ngày nay tại trung tâm di tích người ta xây đài tưởng niệm hình thành ngôi mộ chung cho hàng ngàn chiến sĩ đã ngã xuống trong những ngày đêm khốc liệt này. Ngôi mộ tập thể này được thiết kế theo quan niệm triết lý âm dương mang ý nghĩa sâu sắc là để siêu thoát cho linh hồn những người đã khuất. Có 81 bậc thang đi lên tượng trưng cho 81 ngày đêm chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị. Nguồn: Trung tâm Quản lý Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị

Quảng Trị 3955 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang

Chùa Sắc Tứ nằm trên vùng đồi phía tây nam làng Ái Tử thuộc địa phận thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang ban đầu có tên là Am Tịnh Độ, được xây dựng từ những năm đầu thời Lê (1735 - 1739) . Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hựu thứ 5 (1739, đời vua Lê Ý Tông) chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trong một dịp ngự giá ra Quảng Trị, cảm khái với cảnh trí chốn Phật đường và tiếng tăm của chùa trong dân chúng nên đã thân hành ngự bút viết 5 chữ "Sắc Tứ Tịnh Quang Tự" rồi cho làm bảng sơn son thếp vàng để tặng cho chùa. Từ đó Am Tịnh Độ đổi thành chùa Tịnh Quang và dân chúng cũng từ đó quen gọi chùa bằng cái tên là chùa Sắc Tứ (chùa được nhà nước sắc phong), còn nhà Phật thì quen dùng tổ hợp: Tổ đình Sắc Tứ Tịnh Quang. Chùa có cấu trúc gồm một ngôi nhà rường truyền thống có mái chồng diêm, nguyên liệu chủ yếu được sử dụng là xi măng, cốt thép với tổng diện tích là 837m2. Bộ mái trang trí công phu bằng nghệ thuật đắp vữa và ghép mảnh sành sứ. Bờ nóc của chùa thẳng, trang trí hoa văn hình rồng. Trong khuôn viên chùa có đài Quan Thế Âm Bồ Tát (xây dựng năm 1976) cùng một số tháp là phần mộ của các vị sư trụ trì đã quá cố. Cổng tam quan xây hai tầng mái, tầng trên tôn trí tượng Hộ Pháp hướng mặt vào chùa. Sau tam quan có chiếc cầu bắc qua hồ sen để đi vào sân trước chùa và chánh điện. Ngôi chánh điện có chiều sâu 31m, rộng 27m, cao gần 15m, kiến trúc mái chồng diêm, phần nóc trang trí tứ linh; mặt trước, giữa hai mái có 5 bức phù điêu về cuộc đời đức Phật: Đản sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp và nhập niết bàn. Chính điện chùa Sắc Tứ ở gian giữa, lớp trên thờ bộ tượng Tam Thế, kế tiếp là Thích Ca tọa thiền cùng tả, hữu là A Nan Đà và Ca Diếp đang đứng. Ngoài cùng là Di Lặc, Thích Ca sơ sinh. Gian bên tả thờ tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Phía trước có tượng Phổ Hiền Bồ Tát đang ngồi trên mình lân. Gian hữu thờ tượng địa tạng Bồ Tát, phía trước là tượng Văn Thù Bồ Tát đang cưỡi long mã. Hậu điện thờ tượng Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Chí Khả- người dựng nên chùa Sắc Tứ cùng hai vị hòa thượng là Tuyết Phong và Bửu Ngạn- những người thuộc thế hệ đầu tiên trụ trì ở chùa. Chùa có pho tượng đức Phật Thích Ca bằng đồng nặng 2700 kg, đúc năm 1997 và chiếc trống lớn bằng da trâu, đường kính mặt trống là 165 cm. Trong khuôn viên chùa có đài Bồ tát Quan Thế Âm. Chùa Sắc tứ Tịnh Quang là ngôi tổ đình danh tiếng của Phật giáo xứ Đàng Trong, là nơi từng bồi dưỡng và đào tạo nhiều danh tăng thạc đức. Lễ hội giỗ Tổ chùa hằng năm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch, tổ chức rất quy mô với sự tham dự của hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử ở Quảng Trị, các tỉnh lân cận và khách hành hương khắp nơi. Ngày 15/11/1991 chùa được xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia. Nguồn: Báo Quảng Trị

Quảng Trị 3776 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Giao tế Quảng Bình

Tọa lạc ở thôn Giao Tế, Đức Ninh, cách trung tâm thành phố Đồng Hới chỉ 3km về phía Tây, Di tích lịch sử Quốc gia, cơ quan Giao tế – Chuyên gia (gọi tắt là Khu giao tế Quảng Bình) được thành lập ngày 21-8-1954 và giải thể vào tháng 7-1988. Trong 34 năm thực hiện sứ mệnh ngoại giao, cơ quan này đã đón tiếp chu đáo trên 450 đoàn khách trong và ngoài nước. Với vai trò lịch sử vô cùng to lớn của mình, Khu Giao tế Quảng Bình được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia, ngày 4-12-1998. Khu giao tế Quảng Bình khi mới thành lập có trụ sở tại thị xã Đồng Hới. Thời kỳ đầu, Khu Giao tế Quảng Bình được xây dựng ở thị xã Đồng Hới, nhiệm vụ của Khu Giao tế lúc này là đưa đón các đoàn cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc, các đoàn khách đến thăm và công tác tại tỉnh. Năm 1964, khi giặc Mỹ điên cuồng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, trong mưa bom bão đạn, để bảo đảm hoạt động đưa đón, phục vụ khách, Giao tế Quảng Bình đã liên tục chuyển trụ sở tiếp khách cũng như bắt buộc phải chia hoạt động giao tế thành những nhóm nhỏ, đóng tại nhiều địa phương trong tỉnh như Đức Ninh, Cộn, Nghĩa Ninh, Lý Ninh, Bố Trạch… Năm 1970, Ủy ban hành chính Quảng Bình quyết định triển khai xây dựng Khu Giao tế tại đồi Đức Ninh. Việc xây dựng đang dang dở thì đế quốc Mỹ quay trở lại, tiếp tục mở rộng cuộc chiến với âm mưu ngày càng xảo quyệt hơn. Khu Giao tế lại tiếp tục sơ tán lên vùng Cộn. Năm 1973, khi Hiệp định Pari vừa được kí kết, Trung ương Đảng và Chính phủ đã chỉ thị cho Quảng Bình gấp rút xây dựng Khu Giao tế tại Đức Ninh để phục vụ tổ cố định quốc tế đóng tại Đồng Hới giám sát Hiệp định Genevơ. Với bao bộn bề, thiều thốn của một tỉnh vừa mới thoát khỏi cuộc chiến tranh khốc liệt và trường kỳ, Quảng Bình đã nhanh chóng bắt tay vào triển khai nhiệm vụ mới. Chỉ sau một thời gian ngắn, Khu Giao tế đã cơ bản hoàn thành và đi vào hoạt động. Với khuôn viên gần 4 héc-ta, Khu Giao tế được chia thành nhiều khu vực như: khu nhà nghỉ cho khách trong nước, khu nhà nghỉ cho khách nước ngoài, nhà làm việc, hội trường, bếp ăn… Tháng 5/1973, 19 đoàn ngoại giao quốc tế và Đoàn của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – Việt Nam do bà Nguyễn Thị Bình dẫn đầu cùng các ông Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Thích Đôn Hậu… đã đến khu Giao tế để làm công tác chuẩn bị cho việc ra mắt Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – Việt Nam. Tháng 9/1973, khu Giao tế đã vinh dự đón và phục vụ Đoàn khách cao cấp của Đảng và Nhà nước Cu Ba do đồng chí Phi đen-Catxitơrô dẫn đầu. Tại đây Chủ tịch Phi đen-Catxitơrô đã ở lại nhiều ngày để vào thăm vùng giải phóng ở Quảng Trị. Cũng tại khu Giao tế này, lãnh đạo cao nhất của các nước Lào, Campuchia, Tiệp Khắc, Đảng Cộng sản Pháp… đã đến làm việc và nghỉ tại đây. Nhiều lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta như đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ đã từng vào nghỉ lại ở khu Giao tế để làm việc. Tại khu Giao tế, nhiều sự kiện lịch sử đã diễn ra, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bàn về giải phóng miền Nam đã được khởi xướng… Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3270 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng mộ và nhà thờ Đề Đốc Lê Trực

Nhà thờ và khu mộ Đề đốc Lê Trực ẩn mình bên dòng sông Gianh, thuộc làng Thanh Thủy, xã Tiến Hóa (Tuyên Hóa, Quảng Bình). Đề đốc Lê Trực là thủ lĩnh nghĩa quân Cần Vương lừng danh, một tấm gương trung trinh yêu nước mà hậu duệ bây giờ vẫn kể. Vào cuối thế kỷ XIX, xã hội phong kiến Việt Nam ngày một rối ren, Đàng Trong thì nội bộ lủng củng đố kỵ nhau, Đàng Ngoài thì thực dân Pháp ra sức lấn chiếm. Trước sức mạnh của chủ nghĩa thực dân với phương thức sản xuất Tư Bản chủ nghĩa, triều đình phong kiến nhà Nguyễn liên tục phải ký các hiệp ước đầu hàng với Pháp. Sau khi triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp ước bán nước, khắp nơi trên đất nước ta từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ rồi Nam Kỳ phong trào kháng chiến chống Pháp nổi lên mạnh mẽ, đặc biệt là khi vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương thì phong trào khởi nghĩa lan rộng ra khắp các tỉnh, làm cho thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Ở Quảng Bình phong trào kháng chiến của nhân dân nổi lên rầm rộ, nhưng tiêu biểu nhất vẫn là nghĩa quân do Đề Đốc Lê Trực đứng đầu. Lê Trực người làng Thanh Thủy, phủ Quảng Trạch (nay là xã Tiến Hóa – Tuyên Hóa) Ông đỗ Tạo sỹ (Tam Giám Tiến sỹ võ), nguyên làm lãnh binh Hà Nội. Khi tướng giặc Henry Ryviere hạ thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn, Ông bị triều đình cách chức. Đến khi nhận chiếu Cần Vương vào năm 1885, các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi bùng lên, Lê Trực tập hợp một số quân dân đứng lên khởi nghĩa ở vùng sông Gianh, lấy Cửa Xai trong vùng núi Thanh Thuỷ làm căn cứ, được Tôn Thất Thuyết cho phục nguyên hàm. Từ đó, ông kêu gọi sĩ phu, thân sĩ trong vùng theo Hàm Nghi chống Pháp. Nghĩa quân của Lê Trực ngày một phát triển mạnh mẽ, tầm hoạt động càng lớn, tiếng vang ra khắp các địa bàn. Lê Trực đã tổ chức được nhiều cuộc tấn công lớn, nhỏ, đánh tập kích vào đồn bốt địch, bắt giết lũ tay sai bán nước. Tuy phong trào Cần Vương bị thất bại, các văn thân, sỹ phu yêu nước, người bị bắt, người bị giết nhưng tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất và ngọn lửa hồng truyền thống ấy luôn luôn cháy rực trong lòng nhân dân cả nước nói chung và Quảng Bình nói riêng. Đến khoảng ngày 28, 29 tháng 9 năm 1888, khi hay tin vua Hàm Nghi bị bắt và bị giải về Đồn Thuận Bài, Quảng Trạch, Ông và một số đề đốc khác đã đến bái kiến vua và nộp mình. Tuy nhiên, Ông vẫn không chịu nhận niên hiệu vua mới Đồng Khánh mà chỉ lấy niên hiệu vua Hàm Nghi. Đầu năm 1891, cụ Lê Trực đã phải giải hoà với Pháp để bảo vệ cuộc sống cho dân lành. Phong trào Cần Vương Quảng Bình kết thúc. Lê Trực mất tại quê nhà vào tháng 6 năm Đinh Mẹo (1918), tại làng Thanh Thủy, Tuyên Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Bình-Hưởng thọ 90 tuổi. Lê Trực mất ở quê nhà nhưng tên tuổi ông vẫn gắn liền với những địa danh như tên làng, tên phố, tên đường. Hình ảnh, công lao cùng ý chí kiên cường của ông vẫn sống mãi trong lòng nhân dân. Để tưởng nhớ một người con trung với nước, hiếu với dân, tận tuỵ, gian khổ một lòng vì tổ quốc, giang sơn, nhân dân và bà con đã góp công, góp của để xây dựng nhà thờ, mộ của Ông vào năm 1912. Khu Di tích Mộ và Nhà thờ Đề đốc Lê Trực đã được xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc Gia, ngày 21 tháng 6 năm 1993. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3995 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích đình làng Minh Lệ Quảng Bình

Đình Làng Minh Lệ thuộc thôn Minh Lệ, tổng Thuận Phi, Phủ Quảng Trạch nay thuộc làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình. Đình làng nằm cách trụ sở UBND xã 400m về phía Tây Bắc, cách thị trấn Ba Đồn 6km về phía Tây Nam, cách ga Minh Lệ 400m về phía Đông Bắc. Đình Làng Minh Lệ được xây dựng từ những năm 1464 dưới thời vua Lê Thánh Tông, hoàng đế thứ 5 của nhà Lê sơ. Đây là nơi thờ tự linh thiêng và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa tính ngưỡng, là nhân chứng của lịch sử. Đình làng Minh Lệ là nơi thờ tự thành hoàng làng Trương Hy Trọng và 4 vị đức thần tổ: Trương, Nguyễn, Hoàng, Trần. Ông là người con trai thứ hai của Trương Công Lang – là một vị tướng tài của vua Lê Lợi. Trương Hy Trọng tên thật là Trương Công Chấn tiếp nghiệp cha đã lập nhiều chiến công to lớn trong công cuộc chống quân Chiêm Thành, trấn giữ vùng Thuận Hóa. Ông cùng 3 họ Nguyễn, Hoàng, Trần đã có công chiêu dân, khai phá cùng đất phía Nam sáng lập ra xã Thị Lệ gồm 5 thôn: Minh Lệ (Quảng Minh), thôn Đoài (Diên Trường-Quảng Sơn), Vĩnh Ninh (Hoà Ninh-Quảng Hoà), Vĩnh Phước, Vĩnh Lộc (Quảng Lộc). Năm 1493 sau trận đánh tại Thành Lồi ông đã bị trọng thương và tạ thế tại tại quê làng Minh Lệ. Vua Lê đã vô cùng thương tiếc cho nhân tài của đất nước nên đã sắc phong cho ông là “Cai tri phương tước hầu”. Năm Quang Trung thứ hai ông được phong sắc Trung lang Thượng Tướng Quân. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử thì Đình Làng Minh Lệ vẫn trường tồn với thời gian cùng những giá trị văn hóa và tinh thần vô cùng to lớn đối với nhân dân. Đình làng Minh Lệ được xây dựng công phu từ các khối hình rồng, phượng, đến các bức vẽ, chạm khắc, thể hiện màu sắc nhất là sự bố trí, cấu trúc các cửa, các vòm liên tiếp nhau, cửa chìm vào tường, cửa thông các gian, tường dày, hơi thấp về độ cao. bố cục trong phép đối xứng, đình hậu lại làm theo kiểu mái cuốn vòm kế tiếp nhau thành hai vòm, càng vào trong càng thấp xuống. Mặt rồng hung dữ, thân rồng thô, chân rồng chắc khoẻ thể hiện thế lực đầy quyền uy của chế độ phong kiến nhà Nguyễn. Đình Minh Lệ là khu di tích bao gồm: cổng, thành bao, sân, bình phong, đình trung và đình hậu. Trong đó đình trung có bốn mái, hai mái trước và hai mái hồi. Trên đình, giữa mái có lưỡng long chầu nguyệt, hai góc mái là hình hai con rồng lượn được cách điệu bằng hoa lá, đầu rồng ẩn trong lá. Bốn góc mái là hình rồng lượn vuốt cong, nâng mái lên cao uyển chuyển, giữa hai đường mái trước là hình khối những con lân. Gian giữa thông với gian hai bên bằng ba cửa vòm và thông với đình hậu cũng bằng 3 cửa vòm. Đình làng Minh Lệ gắn liền với nhiều những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê hương qua các thời kỳ. Như trong thời kỳ vận động thành lập đảng, khởi nghĩa giành chính quyền 1945, hay cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Đến năm 1992 Đình Làng Minh Lệ được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc Gia. Hàng năm trong các ngày lễ tết, con cháu trong làng từ khắp nơi trên mọi miền tổ quốc đều về đây dâng hương. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3391 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chiến Khu Trung Thuần

Chiến khu Trung Thuần nằm ở vùng bán sơn địa thuộc địa phận hai xã Quảng Lưu và Quảng Thạch, huyện Quảng Trạch, cách thị trấn Ba Đồn chừng 5 km về phía Tây. Từng là căn cứ địa cách mạng quan trọng của quân và dân Quảng Trạch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chiến khu Trung Thuần đã trở thành chứng tích lịch sử hào hùng, là niềm tự hào của mỗi người dân nơi đây. Chiến khu Trung Thuần là di tích lịch sử được xếp hạng quốc gia năm 1995. Chiến khu nằm trên diện tích 2 xã là Quảng Lưu và Quảng Thạch. Tuy nhiên, diện tích chính chủ yếu vẫn thuộc xã Quảng Thạch. Chiến khu Trung Thuần xưa là một thung lũng bao kín với nhiều núi cao và rừng rậm theo hình chữ U. Trong chiến khu có đỉnh Chóp Chài cao gần 1.000m so với mực nước biển đã trở thành “đài” quan sát lý tưởng cho cả vùng. Ở các xóm nhỏ của Trung Thuần như Dương Khê, xóm Hà, Xuân Vương, Kim Thanh, Tam Đa, Trung Chính, Tiền Miếu, Dinh Cừ, Phù Lưu, Vân Tập... các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ như: Trống đồng Phù Lưu, trống đồng Đông Sơn loại I, lưỡi câu đồng, rìu đồng và dấu tích phế đô Lâm ấp. Trung Thuần trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh là căn cứ lớn của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, căn cứ Đại Đồn (Trung Thuần) cùng với đồn Roòn, đồn Thuận Bài là những phòng tuyến chiến lược quan trọng của quân Trịnh ở phía Bắc sông Gianh, những dấu tích còn lại như giếng Tàu Voi, hòn Vọng Bái... Trong thời kỳ Cần Vương, Trung Thuần là căn cứ của nghĩa quân Lê Trực trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Quảng Bình. Trung Thuần là căn cứ quan trọng trong cả hệ thống căn cứ Cần Vương như Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), Quy Đạt, Khe Ve ..., những dấu tích còn lại như Bãi Tập, Bạch Thạch, Linh Thần, Ao cá, Khe đá mài, xóm Tiền Miếu, xóm Xuân Vương. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến khu Trung Thuần không chỉ là nơi Huyện ủy, Ủy ban hành chính và các cơ quan đầu não của huyện Quảng Trạch làm việc mà còn là nơi huấn luyện, chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền và bổ sung lực lượng để cùng tự vệ Võ Xá giành chính quyền tại thị xã Đồng Hới tháng 8-1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trung thuần là hậu cứ của Binh đoàn B70 quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là điểm trung chuyển trong hệ thống đường Hồ Chí Minh chi viện sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Do có vai trò quan trọng nên những năm 1968 và 1972, chiến khu Trung Thuần bị máy bay Mỹ bắn phá rất ác liệt. Bộ đội địa phương và người dân hy sinh rất nhiều, tuy nhiên, với ý chí quật cường, điều đó vẫn không làm lung lay tinh thần cách mạng của quân và dân nơi đây. Với đóng góp quan trọng của mình, năm 1971, chiến khu Trung Thuần vinh dự đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào thăm và tổng kết chiến thắng Đường 9-Nam Lào. Nguồn: Báo Quảng Bình

Quảng Trị 5513 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật