Di tích lịch sử

Quảng Trị

Thành cổ Đồng Hới

Thành cổ Đồng Hới là một bộ phận nằm trong tổng thể các di tích lịch sử quân sự của Đồng Hới vào thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, được xây dựng trên một vùng đất xung yếu của đường xuyên việt từ Bắc vào Nam. Cùng với vị trí địa lý thuận lợi là phía Đông giáp với sông và cửa biển Nhật Lệ, vừa là nơi tiếp viện quân, vừa góp phần chặn đứng mũi tiến công bằng đường thuỷ của đối phương, nơi đây đã ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự thắng lợi trong công cuộc Bắc tiến của 9 đời chúa Nguyễn, kết thúc 200 năm nội chiến. Đồng thời, thành Đồng Hới còn ghi dấu nhiều chiến công của quân và dân Quảng Bình qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Thành Đồng Hới được khởi công xây dựng vào năm Gia Long thứ 10 (1812). Thành được xây trên mảnh đất năm xưa chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho dựng luỹ Trấn Ninh (hay còn gọi là luỹ Đào Duy Từ - 1631) và đồn Động Hải (1774) trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Lúc đầu thành được xây bằng đất, đến đời vua Minh Mạng, ông đã nhờ một viên sỹ quan Pháp thiết kế lại và xây bằng gạch vào năm 1824 theo kiến trúc vô băng, mang dáng dấp thành lũy quân sự, hình mũi khế, 4 múi to, 4 múi nhỏ theo hướng tây nam-đông bắc và tây bắc-đông nam. Thành có 3 cổng lớn bắc-nam-đông, trên cổng có vọng canh 8 mái, cổng thành xây cuốn kiểu tam quan thông ra ngoài bằng chiếc cầu gạch cũng xây kiểu vòm cuốn bắc qua hào. Ngoài thành, cách chân thành khoảng 5-6m là hào rộng 7 trượng (28m), mặt ngoài thành đắp đất phụ thêm 3 trượng, thành được xây bằng gạch, vữa bằng mật mía trộn cát, không tô trát, gạch có độ nung cao, loại gạch to còn gọi là gạch vồ. Năm Nhâm Dần 1842, vua Thiệu Trị trên đường đi tuần du ra Bắc qua lũy Trấn Ninh đã đổi tên cũ thành tên Định Bắc Trường thành và cho tu sửa lại. Năm 1885, thực dân Pháp đánh miền Trung, thành Đồng Hới trở thành nơi phòng ngự, phản công của quan quân nhà Nguyễn. Ngày 19-7-1885, thực dân Pháp tấn công thành Đồng Hới lần 2 và thành đã rơi vào tay Pháp. Trong phong trào Cần Vương, quân và dân Quảng Bình tham gia nghĩa quân do Nguyễn Phạm Tuân chỉ huy đã 3 lần đột nhập vào thành Đồng Hới vào tháng 1, 6, 8 năm 1886 tấn công binh lính Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Trong thời chống Pháp, thành Đồng Hới là nơi tụ nghĩa, tụ quân, là điểm hẹn của những con người dám sống, dám hy sinh vì Tổ quốc. Phần lớn thành Đồng Hới đã bị phá hỏng trong thời kỳ Pháp thuộc. Sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, với mục đích san phẳng và huỷ diệt, biến nơi đây trở về thời kỳ đồ đá nhằm ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đã trút xuống Đồng Hới hàng vạn tấn bom đạn và phá huỷ một phần thành cổ. Ngày nay thành Đồng Hới chỉ còn khoảng 1.087m với 15 đoạn dích dắc hình răng khế, đoạn thành phía nam còn lại 2/3 tương đối nguyện vẹn, đoạn thành phía đông còn 3 cổng, 2 cầu nam, bắc thành đã bị sập hoàn toàn, nhìn rõ nhất từ trên bản đồ là một hào nước xung quanh thành theo kiến trúc xưa. Mặc dù đã bị phá huỷ nhiều qua hai cuộc chiến tranh nhưng thành Đồng Hới vẫn bảo lưu được những yếu tố gốc cần thiết. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, cùng với thời gian thành Đồng Hới là nhân chứng, cũng là pho sử ghi dấu một thời kỳ đấu tranh anh dũng của người dân Đồng Hới-Quảng Bình và cả nước trong cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Với tầm quan trọng là một di tích tồn tại hơn 200 năm, là chứng tích lịch sử quan trọng của mảnh đất Đồng Hới-Quảng Bình, Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch đã xếp thành Đồng Hới là một trong 32 công trình trong danh mục dự án văn hoá trọng điểm được đầu tư từ năm 2001-2010. Nguồn: Báo Quảng Bình

Quảng Trị 3792 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử Trạm thông tin A72 Quảng Bình trạm thông tin a72

Tổng Trạm thông tin A72 nằm trong hệ thống hang đá thuộc núi An Bờ, xã Ngân Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Đây là nơi ghi dấu những chiến công thầm lặng, tinh thần quyết chiến quyết thắng, không ngại gian khổ, hi sinh, ý chí kiên cường của cán bộ, chiến sĩ thông tin liên lạc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. A72 là Tổng trạm cơ vụ quan trọng của Trung đoàn Thông tin 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc, đặt ở vùng núi An Bờ, xã Ngân Thủy (Lệ Thủy) trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vào những năm 1966-1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển sang giai đoạn mới quyết liệt hơn, Bộ Quốc phòng quyết định xây dựng thêm tuyến thông tin từ Bắc Nghệ An vào sát bờ Bắc sông Bến Hải. Từ đường trục này sẽ có nhiều đường nhánh toả về các địa bàn để Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chỉ đạo các mặt trận phía Nam Quân khu 4, mặt trận Trị Thiên, Bộ Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn (Đoàn 559), Đoàn vận tải 500 của Bộ Giao thông vận tải và mặt trận Nam Lào. Theo đó, Cục Thông tin liên lạc (tiền thân của Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc sau này), quyết định thành lập Đại đội 7 trực thuộc Trung đoàn Thông tin 136, quản lý và khai thác tuyến dây trần hơn 300 cây số từ Giang Sơn-Nghệ An vào điểm cao 316-Vĩnh Linh. Tuyến này có 3 trạm cơ vụ đều ở trên đất Quảng Bình là: A69 ở Lèn Hà-Tuyên Hoá; A70 ở Khương Hà-Bố Trạch và A72 ở An Bờ-Lệ Thuỷ. Ngày 7-1-1967, tại hang lèn núi An Bờ, xã Ngân Thủy, Tổng trạm Thông tin A72 thuộc Đại đội 7, Trung đoàn 136, Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc được thành lập. Trạm cơ vụ A72 có tới 50 mạch thoại cao tần, 28 đầu máy tải ba các loại và 2 tổng đài loại 100 số. Ngoài nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc cho các hướng chiến trường, A72 còn là trạm đón tiếp các cơ quan của Bộ Quốc phòng và phái viên cấp cao của Đảng và Nhà nước vào trực tiếp theo dõi và chỉ đạo các chiến dịch. Nơi đây trở thành trung tâm chỉ huy chiến dịch. Công việc của cán bộ, chiến sĩ Trạm A72 tăng tới 7-8 lần so với bình thường. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã ở tại hang đá trong Sở chỉ huy, khu vực Tổng trạm Thông tin A72, cùng các tướng lĩnh trực tiếp chỉ huy quân và dân ta chiến đấu trong “Chiến dịch đường 9-Nam Lào” lịch sử. Đánh bại hoàn toàn “Cuộc hành quân Lam Sơn 719” của quân đội đế quốc Mỹ và quân ngụy của chính quyền Sài Gòn. Một chiến công vang dội, oai hùng vào bậc nhất trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của cán bộ, chiến sĩ Tổng trạm Thông tin A72, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho Sở chỉ huy của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, giữ vững thông tin liên lạc trong mọi tình huống ác liệt nhất. Tháng 12-1982, trước yêu cầu về tổ chức lực lượng, Bộ Quốc phòng đã sáp nhập Trung đoàn 136 vào Trung đoàn 134, thống nhất nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc hữu tuyến từ miền Bắc vào miền Trung. Từ năm 1967-1982, Tổng trạm Thông tin A72, Đại đội 7, Trung đoàn 136 đã trưởng thành vượt bậc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo thông tin liên lạc, góp phần vào sự nghiệp chiến đấu xây dựng Binh chủng Thông tin liên lạc anh hùng, Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Trung đoàn được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; Đại đội 7 được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Tổng trạm Thông tin A72 ở xã Ngân Thủy được Nhà nước cấp bằng Di tích lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Báo du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3532 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Nguyễn Hữu Cảnh

Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh nằm trên một ngọn đồi cao, cây cối thoáng mát của dẫy núi An Mã thuộc xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy. Nguyễn Hữu Cảnh là quan có công lớn dưới thời chúa Nguyễn trong việc đánh giặc, mở cõi, định hình lãnh thổ Việt Nam trong một quốc gia thống nhất. Nguyễn Hữu Cảnh sinh năm 1650 tại thôn Phước Long, Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình). Ông được phong tước Lễ Thành Hầu, Khai Quốc Công Thần, liệt vào hạng Thượng Đẳng Công Thần và thờ ở Thái Miếu. Nguyễn Hữu Cảnh là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Thuộc dòng dõi con nhà tướng, tổ tiên là Đinh Quốc Công Nguyễn Bặc, – người khai quốc công thần thời nhà Đinh. – Nguyễn Hữu Cảnh cũng là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trãi, – người khai quốc công thần nhà Lê. Sinh ra trong gia đình truyền thống, lớn lên ở thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh nên tài năng của Nguyễn Hữu Cảnh sớm bộc lộ. Ở tuổi đôi mươi, Nguyễn Hữu Cảnh nổi tiếng khắp vùng bởi văn võ song toàn. Ông theo cha chinh chiến khắp nơi, lập nhiều công lao nên Chúa Nguyễn phong cho chức Cai cơ. Người có vóc dáng hùng dũng, da ngăm đen, sinh năm Dần nên dân gian gọi ông bằng biệt danh “Hắc Hổ”. Lịch sử cũng ghi nhận ông từng nhiều lần đem quân dẹp nhà Chiêm Thành quấy nhiễu phương Nam. Đầu năm 1692, chúa Nguyễn phái Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương, thành lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay). Bình định vừa xong, một nhóm người Thanh, đứng đầu là Aban xúi giục bè đảng dấy loạn. Nguyễn Hữu Cảnh lại nhận lệnh dẹp bọn tạo phản, đem lại sự an ninh cho dân chúng bản hạt rồi được cử làm trấn thủ dinh Bình Khương (còn được gọi Bình Khang, nay là vùng Khánh Hòa – Bình Thuận). Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (có sách ghi Nặc Ong Thu) đem quân tiến công Đại Việt, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh, lo việc đánh dẹp và an dân. Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh bị bệnh. Ngày 16 tháng 5 năm 1700. Nguyễn Hữu Cảnh mất tại Sầm Giang (Rạch Gầm). Đến năm 1802, di hài của Nguyễn Hữu Cảnh được hậu duệ cải về an táng tại xã Trường Thủy. Hiện nay trong khuôn viên Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh ở Quảng Bình còn tấm bia đá rất có giá trị. Bia mộ Nguyễn Hữu Cảnh cao khoảng 1,2m, được tạc bằng đá xanh (cẩm thạch). Sau khi ông mất nhân dân miền Nam nói chung và nhất là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lập miếu thờ ông ở nhiều nơi. Dù mấy thế kỷ đã đi qua song tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Hữu Cảnh còn mãi khắc ghi với người dân Việt nói chung và nhân dân Quảng Bình nói riêng. “Công Lễ Thành Hầu đi mở đất Nghìn năm con cháu mãi còn ghi” Ngày 25/3/1991 Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh đã được Nhà nước xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3724 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đèo Đá Đẽo

Đèo Đá Đẽo nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh nhánh Đông huyền thoại gắn liền với lịch sử Việt Nam. Đèo dài 17km thuộc địa phận của xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Sở dĩ người ta gọi là Đèo Đá Đẽo bởi vì con đèo nằm vắt ngang qua đỉnh một ngọn núi đá vôi dài hơn 10 km. Ngày trước đây chỉ là một con đường mòn nhỏ, nhưng khi chiến tranh Việt Nam, các anh hùng thanh niên xung phong đã mở đường Trường Sơn là con đường huyết mạch cho việc vận chuyển quân, lương, vũ khí… chi viện cho chiến trường miền Nam. Người đi trước đẽo đá mở đường để quân ta tiếp bước đi sau, cũng chính lẽ đó có tên là đèo Đá Đẽo. Địa hình khu vực đèo Đá Đẽo khá đa dạng với đồi núi, thung lũng xen kẽ và bị chia cắt bởi một bên là dãy núi cao, một bên là vực sâu thẳm. Đèo với các đường vòng cua cong gấp, độ dốc khá lớn, bị xói lở nhiều. Khí hậu ở đây lại vô cùng khắc nghiệt với gió Lào nắng cháy, mưa lũ triền miên… Trong những năm tháng chiến tranh, đèo Đá Đẽo là một trong những điểm khốc liệt, bị bom đạn bắn phá suốt ngày đêm. Các loại máy bay tiêm kích, B52 dội bom liên tục, bên cạnh đó là pháo từ hạm đội 7 Hoa Kỳ bắn từ biển Đông. Nơi đây tưởng chừng như đã bị san phẳng thành bình địa bởi bom đạn quân thù. Biết bao thanh niên xung phong đã ngã xuống đảm bảo lưu thông cho tuyến đường trọng điểm. Chiến tranh tàn khốc là thế, bom đạn ác liệt là thế nhưng Đèo Đá Đẽo vẫn sừng sững hiên ngang. Cùng những đôi bàn tay trần không ngại gian lao, hiểm nguy của chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong. Tất cả với tinh thần “máu có thể đổ, đường không thể tắc”, sau khi tiếng bom vừa dứt thì tất cả các anh, các chị ào ra mặt đường lấp hố bom, khắc phục thiệt hại. Khi xây dựng tuyến đường mòn Hồ Chí Minh công nghiệp hóa hiện đại hóa, đèo Đá Đẽo đã được cải tạo nâng cấp. Trở thành tuyến đường du lịch về thăm chiến trường xưa vô cùng ý nghĩa. Ngay trên đỉnh đèo vẫn còn một tấm bia đá ghi dấu thời kỳ lịch sử: “Đèo Đá Đẽo trọng điểm bắn phá ác liệt của không quân Mỹ từ năm 1965 đến 1972”. Khi đi qua đèo Đá Đẽo chúng ta có thể cảm nhận được phần nào sự tàn khốc của chiến tranh, cũng để tưởng nhớ những người con đã hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những câu chuyện, những sự tích oai hùng nơi đây sẽ được truyền mãi đến mai sau. Ngay dưới chân đèo Đá Đẽo là thung lũng Chà Nòi, một khung cảnh hoang sơ tuyệt đẹp. Nằm tựa mình bên dãy núi đá vôi hùng vỹ thuộc Phong Nha Kẻ bàng, có sông, suối, bao quanh bởi những làn sương khói mờ ảo. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3807 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Hoằng Phúc

Chùa Hoằng Phúc với khởi nguồn là am Tri Kiến, chùa Kính Thiên, dân gian thường gọi là chùa Trạm hay chùa Quan, thuộc phường Thuận Trạch (nay là xã Mỹ Thủy), huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Trải qua hơn 700 năm lịch sử, chùa Hoằng Phúc vẫn tồn tại và phát triển với nhiều lần trùng tu, phục dựng. Năm 1609, chúa Nguyễn Hoàng đã cho dựng lại chùa trên nền cũ và đặt tên là Kính Thiên Năm 1716, chúa Nguyễn Phúc Chu ra thăm chùa, cho tu sửa lại, ngự để hai bức hoành biểu “Kính Thiên tự“, “Vô song phúc địa”, và ngự chế 5 đôi liễn treo ở chùa. Năm 1821, vua Minh Mạng ghé thăm chùa, cho đổi tên chùa thành “Hoằng Phúc tự”. Năm 1823, 1826 vua ban 250 lạng bạc cho tu sửa lại chùa. Năm 1842, vua Thiệu Trị ngự giá Bắc tuần, đến thăm chùa Hoằng Phúc, cấp 300 lạng bạc để trùng tu chùa. Chùa Hoằng Phúc không những là nơi thờ tự Đức Phật, nơi hoằng dương Phật pháp mà còn là nơi gắn liền với những sự kiện lịch sử tiêu biểu của quê hương qua các thời kỳ. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, với vị trí nằm ở vùng bán sơn địa, xung quanh cây cối um tùm và giáp với Mỹ Thổ – Trung Lực, nơi ra đời chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở phía Nam tỉnh Quảng Bình (1931). Chùa Hoằng Phúc đã trở thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu, che chở cho cán bộ về đây hoạt động. Đặc biệt năm 1943, đồng chí Bùi Trung Lập cán bộ của Xứ uỷ Trung Kỳ cũng đã đến đây để gặp gỡ cán bộ cách mạng, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, tinh thần đấu tranh đến quần chúng nhân dân. Đầu thàng 5 năm 1945, theo chỉ thị của cấp trên, Ban vận động khởi nghĩa các làng được thành lập, chùa Hoằng Phúc được chọn là nơi hội họp để triển khai các chỉ thị khởi nghĩa của cấp trên và chuẩn bị lực lượng, vũ khí tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ngày 23/8/1945. Trong những năm tháng đấu tranh ác liệt đó, chùa Hoằng Phúc là nơi cất giấu vũ khí, nơi kết nạp, huấn luyện dân quân tự vệ, nơi các cán bộ quân sự cấp trên về hội họp và cùng tổ chức những trận tập kích ở địa phương, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Quảng Bình. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Mỹ Thuỷ là một trong những xã tiếp giáp trực tiếp với tiền tuyến lớn miền Nam. Nơi đây là hậu cứ của chiến trường B, nơi tập kết hàng hoá, vũ khí, điểm dừng chân trước khi vào chiến trường miền Nam. Các phật tử trong chùa Hoằng Phúc đã cùng nhân dân địa phương tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại địa phương. Năm 1967, chùa Hoằng Phúc đã bị bom đạn đánh sập sau những đợt không kích của giặc Mỹ Trước đây, hệ thống tượng thờ tại chùa Hoằng Phúc có số lượng khá lớn, được thiết kế trên 7 cấp thờ. Tuy nhiên, hiện nay chùa chỉ còn lại 7 pho tượng các loại với chất liệu, kĩ thuật chế tác, kiểu dáng và mỹ thuật trang trí khác nhau. Trong đó, có 5 pho tượng bằng đồng và 2 pho tượng bằng gỗ. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ đại hồng chung đúc năm Minh Mạng thứ 20 (1839) để tên Hoằng Phúc linh chung. Tháng 11 năm 2014, công trình phục dựng lại chùa Hoằng Phúc được triển khai thực hiện theo lối chùa cổ thời nhà Trần gồm: Tam quan ngoại, Tam quan nội, tháp Phật, Tam bảo, nhà thờ Tổ, tả hữu hành lang, am hóa vàng và các công trình phụ trợ khác. Với những giá trị lịch sử của chùa, ngày 09/12/2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng chùa Hoằng Phúc là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3458 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng

Di tích vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng tọa lạc tại vùng núi Trung Trung Bộ Việt Nam, là một kỳ quan thiên nhiên nằm ở phía Tây Nam sông Gianh. Với vị trí địa lý độc đáo, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng giáp với nước Lào ở phía Tây và Tây Nam; phía bắc giáp với xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa; phía Đông Nam giáp với xã Trường Sơn, Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Di tích quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ là núi đá vôi lớn nhất thế giới; nơi đây còn sở hữu những hang động kỳ vĩ, những dòng sông bí ẩn và những thác nước tuyệt đẹp. Từ những hang động nổi tiếng được biết đến từ thập kỷ 1920 và được khai thác du lịch từ thời Pháp thuộc, đến những phát hiện mới gần đây từ Đoàn thám hiểm Hang động Hoàng gia Anh, di tích này vẫn làm cho người người mê mẩn bởi những cảnh đẹp mà tạo hóa ban tặng cho nơi đây. Hệ thống hang động ở vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng thuộc loại hang động cổ nhất Đông Nam Á, với những tác động tự nhiên từ hơn 35 triệu năm trước. Đây cũng là nơi hình thành các hệ sinh thái đa dạng nhờ vào khối đá vôi lớn nhất Đông Nam Á, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của rừng nguyên sinh. Với hơn 15 kiểu sinh cảnh và 10 loại thảm thực vật quan trọng, Phong Nha Kẻ Bàng che phủ rừng nguyên sinh đến 83,74% diện tích. Điều làm nên sự nổi bật của di tích Phong Nha Kẻ Bàng không chỉ nằm ở phong cảnh thiên nhiên thơ mộng, mà còn nằm ở sự đa dạng sinh học. Với hơn 2.600 loài thực vật, 735 loài động vật có xương sống và 369 loài côn trùng, trong đó có nhiều loài sinh vật quý hiếm được liệt kê vào sách đỏ. Nơi đây cũng là nơi sinh sống của nhiều loài linh trưởng và dơi đặc hữu, góp phần làm cho hệ sinh thái ở đây trở nên phong phú và đa dạng. Ngoài giá trị sinh học, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử. Từ những dấu tích văn hóa cổ xưa của người Chăm, Việt cổ, cho đến những kỷ vật kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Tất cả điều đó đã mang đến cho di tích Phong Nha Kẻ Bàng những giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng to lớn. Nhờ đó mà vào tháng 7 năm 2003, di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là một trong những di sản thiên nhiên của thế giới. Đến ngày 12/8/2009, thủ tướng chính phủ nước Việt Nam đã công nhận di tích vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng là một trong những di tích lịch sử Quảng Bình được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Du lịch Quảng Bình

Quảng Trị 3387 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm di tích nổi bật